Pages

18/5/09

CHÚA GIÊSU ĐANG SỐNG (Chương II)

Chương II:
NAGUA và PIMENTEL

I. NAGUA

Sau năm ấy, lẽ ra phải nằm bệnh viện, tôi trở về Cộng Hòa Đôminicana. Bề Trên sai tôi đến một xứ đạo thuộc tỉnh Nagua.

Đến nơi, tôi mời lối 40 người lại, để làm chứng cho họ biết việc tôi được lành bệnh. Tôi nhớ là đã mời một số bệnh nhân đến ngồi phía trước, để cầu nguyện cho họ. Tôi ngạc nhiên thấy số người bệnh đông hơn người khoẻ. Tối hôm đó, Chúa chữa lành 2 người. Cả nhóm dậy lên nỗi vui mừng, và những người được lành bệnh đi làm chứng khắp nơi. Cách khiêm tốn như thế, bắt đầu một câu chuyện mà chúng ta không ngờ đem lại kết quả quá kỳ diệu.

Nhờ việc Chúa chữa lành bệnh tật, nhóm chúng tôi trở nên như Bàn Tiệc Nước Trời: những kẻ được mời là què, đui, câm, điếc, và nghèo khổ.

Tuần này qua tuần kia, Chúa đã chữa lành mọi bệnh tật. Vào tháng 8, Chúa chữa lành bà Sara khỏi ung thư tử cung. Bị các bác sĩ chê, bà xuất viện về nhà chờ chết. Người ta dẫn bà đến với nhóm, và trong lúc cầu nguyện cho bệnh nhân, bà cảm thấy nơi bụng nóng như đốt, và bà bắt đầu khóc. Dần dần, bà nhận ra là căn bệnh đã biến mất. 15 ngày sau, bà được hoàn toàn bình phục. Bà trở lại với nhóm, đem theo khăn liệm và đồ an táng, mà con cái đã sắm sẵn để chôn bà.

Dân chúng tới mỗi lúc một đông, mọi người ca hát, vui mừng và tưng bừng ngợi khen Thiên Chúa. Thấy các bệnh nhân được chữa lành và những dấu lạ, người ta khóc nức nở: khóc vì hạnh phúc, và người ta kể lại cho mọi người nghe những sự lạ đang xảy ra trong xứ đạo.

Chúa đã dùng lời trí tri mà dạy rằng:

“Ta, Ta làm việc trong an bình. Ta ban bình an cho anh em. Hãy nên sứ giả hòa bình! Ta bắt đầu đổ Thánh Thần Ta trên các ngươi. Đó là ngọn lửa thiêu sẽ lan tràn khắp phố phường. Hãy mở mắt và các ngươi sẽ thấy dấu lạ điềm thiêng, mà nhiều người muốn được thấy lại không thấy! Chính Ta nói như thế và Ta sẽ làm.”

Chắc chắn, đây là công trình của Chúa. Rất nhiều phép lạ luôn xảy ra, tôi không thể kể hết. Những đôi vợ chồng rối đến chịu Phép Hôn Phối, những bạn trẻ thoát khỏi tật nghiền ma túy và rượu. Đó là mẻ cá lạ lùng. Chúa đã cho cá vào đầy lưới, đến nỗi tưởng chừng như chìm ghe.

Chúa Yêsu đang giải thoát dân Ngài khỏi xiềng xích nô lệ. Có những bạn trẻ trước đây không còn thiết tha với Giáo Hội cũng như với đức tin, bây giờ bắt đầu tuyên xưng Chúa Yêsu là Đấng giải phóng họ.

Trong một kỳ tĩnh tâm ở xứ đạo, chúng tôi loan báo Tin Mừng về Chúa Yêsu, và sau đó, dâng Thánh Lễ cầu nguyện cho bệnh nhân. Lời thông tri đầu tiên mà Chúa ban cho tôi là:

- Ở đây có một phụ nữ đang được chữa bệnh ung thư. Bà ấy đang thấy nóng như đốt ở bụng.

Tôi tiếp tục cầu nguyện và nói nhiều lời trí tri khác, được xác minh bởi những chứng tá. Nhưng ngay lúc đó, không ai xác minh lời trí tri đầu tiên này cả.

Hôm sau, có một phụ nữ đến trước máy phóng thanh và nói với mọi người:

- Có lẽ các bạn lấy làm ngạc nhiên khi thấy tôi đến đây. Tôi là một kẻ tội lỗi, một gái điếm. Từ nhiều năm nay, tôi đã hành nghề mãi dâm. Hôm qua, tôi có đến đây dự lễ cầu nguyện cho bệnh nhân, nhưng không dám vào nhà thờ vì xấu hổ; tôi bèn đứng ở sau hàng rào. Tôi bị ung thư, đã 2 lần mổ, nhưng không chặn được bệnh. Đến khi linh mục lên tiếng báo có một người đang được chữa bệnh ung thư, tôi liền nghĩ đó chính là tôi.

Chúa Yêsu đã chữa chị không chỉ khỏi ung thư thể xác, mà còn cả ung thư linh hồn. Chị ta đã hối cải, và ngày hôm sau chị đến rước lễ.

Khi thấy chị rước lễ với niềm vui khôn tả và khuôn mặt đầm đìa nước mắt vì hạnh phúc, tôi liên tưởng ngày trở về của đứa con hoang đàng được cha thết đãi tiệc béo. Chị ấy rước Chiên Thiên Chúa – Đấng xóa tội lỗi trần gian – đến tẩy sạch linh hồn và đổi mới đời sống chị. Sau đó, chị trở về nhà chứa, khóc lóc vui mừng kể lại cho các bạn biết về việc Chúa đã làm cho chị:

- Tôi không đến để bảo các bạn từ bỏ lối sống này, tôi chỉ muốn nói cho các bạn biết về Người Bạn Yêsu của tôi: Ngài đã chuộc mạng tôi và biến đổi đời tôi.

Chị kể lại việc Chúa chữa chị lành bệnh và việc chị ăn năn trở lại. Sau đó, chị ta xin phép lập một nhóm cầu nguyện tại nhà chứa, và cứ mỗi thứ hai, họ đóng cửa không tiếp khách, để mở tâm hồn ra đón Chúa Yêsu. Ở đây, họ cầu nguyện, đọc Lời Chúa và ca hát.

Chúa chưa kết thúc công việc của Ngài ở đấy. Năm sau, một cuộc tĩnh tâm được tổ chức cho 47 cô gái điếm trong thành phố. Chính ở đấy, tôi thấy Chúa Yêsu biểu lộ tình thương xót của Ngài: người ta hối cải, ăn năn trở lại và xưng thú tội lỗi. 27 cô gái đã bỏ đường cũ, và theo tin tức mới đây, 21 cô vẫn bền đỗ trong đường lối Chúa, vài cô đã trở thành giáo lý viên, mấy cô khác thành người hướng dẫn những nhóm cầu nguyện, làm chứng về Tình yêu hay thương xót của Chúa đã biến đổi họ.

Trong số 21 nhà chứa tại đường Mariano-Perez, chỉ có 4 nhà còn hoạt động. Các chị em trong nhóm cầu nguyện đã đến đó, và Chúa đã hoán cải những nhà đó.

Cũng phải nhắc lại đây trường hợp của một cô gái trong số các phụ nữ ấy, mà Chúa Yêsu đã bảo là họ sẽ vào Nước Thiên Chúa trước các ký lục và biệt phái.

Cô Diane đã được tình Chúa thúc bách, và cô đã dâng cả cuộc đời cho Chúa. Tuy vậy, cuộc hoán cải của cô rất chậm và chua xót. Cô đã có lần tái phạm vì cần tiền. Khi lìa xa Chúa, Chúa đã nói với cô:

- Diane, ai theo Ta sẽ đi trong ánh sáng và sẽ không thiếu thốn gì.

Cô ấy đã hối cải và trở lại với Chúa. Cô trở thành giáo lý viên, và ngày nay, trong các buổi tĩnh tâm, cô làm chứng cách hăng say về lòng thương xót của Chúa. Cô trở thành đoàn viên của nhóm Rao giảng Tin Mừng, và nhiều linh mục mong muốn có một sức mạnh như cô, để cao rao sức sống mới trong Đức Yêsu Kitô.

Thống kê chính thức cho biết, tại Nagua, trong số 500 nhà chứa, có hơn 80% đã đóng cửa. Dù chưa trở lại hết, nhưng tất cả các cô đã thấm nhiễm sứ điệp “Chúa-Yêsu-đang-sống”. Nhiều nhà chứa trước kia đã phục vụ cho tội lỗi và ích kỷ, thì nay đã trở thành nhà của nhóm cầu nguyện. Sự thay đổi rõ rệt đến nỗi người ta phải nói:

- Nagua trước kia là thành phố mãi dâm, nay là thành phố cầu nguyện.

Hiện nay, không con đường nào ở Nagua lại không có nhóm cầu nguyện. Đó là những nhóm Rao giảng Tin Mừng, đem mỗi cá nhân đến gặp gỡ Chúa-Yêsu-đang-sống.

Trường hợp thành phố Nagua cho chúng ta hiểu thế nào là Đặc sủng Rao giảng Tin Mừng. Đặc sủng không phải là đồ trang trí tình cờ, nhưng thực sự là máng chuyển lời rao giảng.

Đối với những người phủ nhận đặc sủng và cho là không cần thiết,(*) tôi chỉ xin nhắc lại là thành phố Nagua đã được Phúc Âm hóa, và đã rửa sạch tiếng xấu là “thành phố mãi dâm”, nhờ một buổi tĩnh tâm dành cho gái điếm. Buổi tĩnh tâm này đã mang lại kết quả nhờ một phụ nữ, như Madalena đã theo Chúa Yêsu và sau đó đã nên chứng tá. Tại sao? Thưa vì cô ta đã được chữa lành bệnh ung thư (nhờ đặc sủng chữa bệnh).

Một việc lành bệnh thể lý tầm thường đã dẫn đến một biến đổi xã hội. Cũng vậy, Nước Thiên Chúa được thiết lập qua những biến cố nhỏ mọn, tầm thường như hạt cải; nhưng một khi đâm chồi nảy lộc, sẽ mang lại hoa trái dồi dào.

Hỡi bạn, chúng ta là ai mà dám khinh thường đường lối của Thiên Chúa?

II. PIMENTEL

Tại Nagua, tôi đang sung sướng công tác với các nhóm cầu nguyện, nhưng Thánh Thần lại chuẩn bị cho tôi một bất ngờ lớn. Quả thật, đường lối Thiên Chúa khác với đường lối chúng ta (Is 55,8), nhưng tốt đẹp trổi xa điều chúng ta có thể cầu xin hay tưởng nghĩ (Eph 3,20).

Cha Giám Tỉnh xin tôi tạm thay cho một linh mục đi nghỉ hè. Phải bỏ Nagua đi nơi khác, thực thà mà nói, đó là một điều đau xót cho tôi. Chúng ta luôn muốn được an phận với những gì mình đang có. Nhưng đó là điều làm cản trở tác động bất ngờ của Thần Khí khi Ngài muốn ra uy. Sống trong Thánh Thần là từ bỏ mình, không chiếm hữu cho mình những gì Thiên Chúa đã khấng ban cho ta, ngay cả điều mà chúng ta gọi là “Thừa tác vụ”. Chúng ta được gọi sống đời lữ khách dưới các lều tạm, luôn sẵn sàng dấn bước vào cuộc hành trình không hẹn ngày về. Chính lúc chúng ta không có gì cả, lại là lúc chúng ta có khả năng được tất cả.

Ngày 10-06-1974, tôi đến nhiệm sở mới: Pimentel, một làng dễ thương ở ngay trung tâm đất nước, xung quanh có đồng bằng, dồi dào thóc lúa, khoai tây, ca cao và cam, nhờ nguồn nước sông Cuaba. Chỉ có một con đường đất băng ngang qua làng, lừa ngựa thường xuyên qua lại, thỉnh thoảng mới có một chiếc xe hi hoặc xe buýt. Lá quốc kỳ phất phới trên tòa nhà thị chính, quanh đó là công viên với những vòm cây chà là và xiêm gai. Phía bên kia tòa thị chính là xứ đạo Thánh Gioan Tẩy Giả – một cái tên gợi lên sứ vụ của tôi cũng như bất cứ ai đi rao giảng Tin Mừng: đó là vai trò tiền hô dọn đường cho Chúa Cứu Thế. Thần Khí Chúa đã dẫn tôi đến đó, để làm chứng cho ánh sáng của Chúa Yêsu Kitô Phục Sinh.

Vừa tới nơi, tôi vào nhà cha sở, ngài đã sẵn sàng vali để lên đường. Tôi chỉ xin cha cho phép tổ chức một nhóm Canh Tân nhỏ.

Chuyện này làm cha sở bực mình, ngài sợ! Không dám từ chối, bởi lẽ tôi đến đây là để thế chân cho ngài đi nghỉ hè, nhưng ngài nói:

- Thôi được, cha cứ lập nhóm, nhưng đừng có bày chuyện đặc sủng.

- Vâng! Nhưng, thưa cha, đặc sủng không do tôi ban, mà là do Thánh Thần. Nếu Thánh Thần muốn ban đặc sủng cho giáo dân của cha, tôi làm gì được nào?

Cha sở đáp và chào từ giã:

- Thôi, cha muốn làm gì thì làm!

Hè năm ấy nóng bức, nhưng một điềm báo Thần Khí Chúa sẽ đổ xuống trên chúng tôi. Ai không tin Chúa-Yêsu-đang-sống hiện ở cùng chúng tôi, và ngày nay, Ngài còn làm những việc lạ lùng, thì đừng đọc những chuyện sau đây, vì với họ, đó là chuyện khó tin.

1. Buổi họp đầu tiên:

Trong Thánh Lễ Chúa Nhật đầu tiên, tôi mời mọi người đến dự buổi giảng về Canh Tân Đặc Sủng, và hứa sẽ kể lại việc lành bệnh của tôi. Hôm ấy, có 200 người đến dự. Với lòng tin, họ đã mang đến một người bại liệt nằm trên băng ca. Bệnh nhân này bị gãy xương sống và đã nằm liệt 5 năm rưỡi.

Khi thấy họ mang bệnh nhân đến, tôi phải nhận là họ bạo gan thật. Hành động này nhắc tôi nhớ chuyện 4 người đã khiêng người bạn bất toại đến với Chúa Yêsu (Mc 2,1-12). Chúng tôi cầu nguyện cho anh ta, và kêu xin Chúa – cậy vì quyền lực các dấu đinh của Ngài – hãy chữa lành người bại liệt này. Người bệnh bắt đầu toát mồ hôi và run rẩy. Tôi liền nhớ lại, khi được Chúa chữa, tôi cũng thấy nóng ran cả người. Tôi nói với anh:

- Chúa đang chữa anh, nhân danh Chúa Yêsu, hãy đứng lên!

Tôi cầm lấy tay anh và anh nhìn tôi sững sờ. Anh ta cố gắng đứng dậy và bắt đầu bước đi chầm chậm. Tôi nói:

- Nhân danh Chúa Yêsu, hãy tiếp tục bước đi! Chúa đang chữa anh.

Anh ta bước từng bước một đến gần Thánh Thể, rồi òa khóc mà tạ ơn Chúa. Mọi người ngợi khen Chúa, trong khi người được chữa lành bước ra giữa cộng đoàn, vác băng ca của mình. Ngày hôm đó, có 10 người khác được Chúa Yêsu Kitô thương chữa lành.

Quả thực, người ta khao khát cầu nguyện dường nào! Họ đến gần chúng tôi và yêu cầu dạy họ cầu nguyện. Như Chúa Yêsu, chúng tôi phải dạy họ bằng cách cùng cầu nguyện với họ. Chúng tôi không thể bỏ lỡ một cơ hội tuyệt diệu như thế! Nếu ta nói về Chúa ít hơn và nói với Ngài nhiều hơn, thì trần gian sẽ được thay đổi mau biết mấy! Đúng thế! Chúa thích chúng ta nói về Ngài, nhưng hơn thế nữa, Ngài thích chúng ta nói với Ngài.

2. Buổi họp thứ hai:

Thứ tư sau, có 3.000 người kéo đến; bởi đó, chúng tôi phải họp ngoài đường, vì nhà thờ không đủ chỗ chứa. Do quá đông như vậy, chúng tôi không thể tụ thành một nhóm cầu nguyện được, tôi liền giảng nửa giờ trước khi dâng Thánh Lễ cầu cho bệnh nhân.

Trong giờ cầu nguyện, một phụ nữ tên Mercedes Dominguez, mù đã 10 năm, cảm thấy lạnh buốt ở đôi mắt. Dominguez trở về nhà, rất xúc động nói cho mọi người biết là bà đã thấy được một chút. Hôm sau, lúc thức dậy, bà được hoàn toàn sáng mắt. Chúa đã mở mắt cho bà, và bà đã mở miệng để làm chứng khắp nơi, về việc bà được lành bệnh một cách kỳ diệu, làm cho dân làng xúc động mãnh liệt.

3. Buổi họp thứ ba:

Các bạn thử tưởng tượng xem sự gì đã xảy ra trong tuần lễ thứ ba này? Chúng tôi ra công viên, ngay giữa trời, để ngợi khen vinh quang Chúa. Như thuở xưa, Chúa Yêsu – Đấng-đang-sống – cũng đến trong làng chúng tôi. Công viên trở nên giống hồ Bêthesđa xưa: “với đầy bệnh nhân mù, què và bại liệt, đang chờ được chữa lành” (Ga 5,1-2).

Bêthesđa có nghĩa là “Nhà xót thương”. Pimentel – một làng nhỏ nhất – đã trở nên nơi Chúa chọn, để tỏ bày lòng thương xót của Ngài. Tác vụ chữa bệnh là tác vụ của lòng thương xót của Thiên Chúa. Đêm hôm đó, có hơn 7.000 người dự. Như tuần trước, chúng tôi rao giảng tình yêu của Chúa Yêsu, Ngài đang sống trong Giáo Hội, và tiếp tục hành động qua những dấu lạ và kỳ công. Chúng tôi dâng Thánh Lễ và Chúa lại chữa lành các bệnh nhân. Thật là ngoài sức tưởng tượng! Như xưa tại tiệc cưới Cana, Chúa đã biến nước thành rượu, nhiều đến nỗi còn có thể tổ chức thêm những tiệc cưới khác. Khi chúng ta xin Chúa điều gì, thì Ngài cũng ban cho, vì quyền năng cũng như tình yêu của Ngài không có giới hạn. Ngài không chỉ chữa lành cho 2, 3 người, nhưng cho một số đông vô kể.

Cảnh sát rất bực bội, vì phải làm việc ngoài giờ để giữ trật tự cho số đông dân chúng đi lại, trong một làng quá bé nhỏ như thế. Cảnh sát đã xin Trưởng ty dẹp các cuộc hội họp này đi, ông ta giang đôi tay ra, cười và trả lời:

- Tôi cũng vậy, cũng đã muốn dẹp chúng đi. Nhưng khốn nỗi, chính vợ tôi đã được lành bệnh, từ một trong những buổi nhóm họp này.

Bà vợ ông ta bị bệnh đã 12 năm. Tình yêu Chúa đã chạm đến bà. Vài ngày sau, hai ông bà đã đến chịu phép Hôn phối.

Chúa đã tiên liệu tất cả, thay vì cấm họp, cảnh sát đã tăng cường cho chúng tôi 18 nhân viên, để ổn định trật tự lưu thông trong buổi họp kỳ tới.

4. Buổi họp thứ tư:

Ngày 9 tháng 7, kỷ niệm ngày tôi trở về Cộng Hòa Đôminicana, sau khi được Chúa chữa bệnh. Từ 9 giờ sáng, dân chúng khắp nơi trong nước tuôn đến bằng xe lớn, xe nhỏ. Ngay cả mấy bác tài xế taxi cũng quảng cáo giùm chúng tôi, vì trong vụ này, họ cũng có lợi. Chiều hôm đó, có khoảng 20.000 người đến họp cầu nguyện. Số người quá đông, đến nỗi chúng tôi phải leo lên mái nhà đặt bàn thờ và loa phóng thanh trên đó.

Các bạn có biết Chúa đã “trả thù” cách nào đối với những cảnh sát định dẹp cuộc nhóm họp không? Chính đêm hôm đó, Chúa chữa lành cho một nhân viên bị xuất huyết mạch máu não, nên bị bán thân bất toại. Bắt đầu từ lúc đó, tất cả nhân viên cảnh sát đều đứng về phía chúng tôi. Quả thật, Chúa giải quyết các vấn đề cách êm đẹp hơn chúng ta biết bao!

Một bà nọ, trong làng ai cũng biết là bị điếc từ 16 năm, nay bà được khỏi hẳn. Thoạt đầu, bà nghe ù ù trong tai, liền đó, bà mới nhận ra là đã nghe rõ bài giảng. Hôm sau, gặp bà ấy đi chợ, một người làm công nói với bạn:

- Bà điếc đến đấy, chúng ta thử nhép miệng nhưng không phát âm, để trêu bà ấy chơi!

Nhưng bà đã nghe họ nói và tươi cười đáp:

- Không, thưa các anh, tôi không còn điếc đâu! Chúa Kitô đã chữa tôi chiều hôm qua.

Như thế, bà ta không chỉ minh chứng là được lành bệnh, nhưng còn làm chứng cho quyền năng Thiên Chúa nữa.

Một người đàn ông chỉ bò đi bằng tứ chi cũng được chữa khỏi ngày hôm đó. Quá nhiều sự lạ và ơn lành bệnh đã xảy ra! Chúng tôi được chứng kiến mọi sự. Mắt thấy, tai nghe trực tiếp và sống động những điều được kể trong Phúc Âm. Chính Chúa-Yêsu-Phục-Sinh đang đi đứng giữa chúng ta và đang cứu thoát dân Ngài.

Đêm hôm đó, theo các lời chứng được ghi nhận, đã có hơn 100 người được chữa lành.

5. Buổi họp thứ năm:

Đến buổi nhóm họp thứ năm, thiết bị âm thanh của chúng tôi không thể đủ mạnh để nghe. Cảnh sát làm một bài tính số người trên mét vuông: có đến 42.000 người, đến từ Puerto Rico, Haiti và từ tất cả các xứ đạo trong nước. Các mái nhà đông nghẹt người, xe buýt, xa tải, xe con choán chật con đường làng.

Sở dĩ người ta đến đông như vậy, chỉ vì Chúa Yêsu chưa thay đổi phương pháp làm việc. Đơn giản thế thôi! Phần chúng ta, chúng ta hãy lo tìm phương phápp phục vụ hữu hiệu hơn, phù hợp với thời đại hơn. Còn Chúa, Ngài cứ tiếp tục lối làm việc của Ngài: Ngài đi khắp vùng Galilê, chữa lành mọi bệnh tật, đoàn lũ dân chúng theo Ngài và được Ngài rao giảng Lời Cứu Rỗi (Lc 6,17-18). Ngày nay, vẫn vậy: Chúa chữa người bệnh tật, và hằng ngàn, hằng vạn người tụ đến, và chúng tôi rao truyền Nước Thiên Chúa cho họ. Đơn giản, đó là Phúc Âm đang được tái diễn.

Tôi bắt đầu hoảng sợ, vì những người khốn khổ này cứ muốn chạm đến tôi và xin tôi cầu nguyện cho. Tối hôm đó, họ giật hết nút áo tôi, và sém chút nữa thì đè tôi chết bẹp. Tôi cũng lo lắng cho những người đã đi đường cả ngày trời đến đây, mà lại không kiếm được thức ăn trong làng, và đành ra về bụng đói, nhưng lòng đầy tình thương của Chúa.

Do đó, chúng tôi cầu xin Chúa soi sáng cho biết phải làm gì cho đám dân đông đảo này. Chính Chúa đã đặt chúng tôi vào thế kẹt, thì cũng chính Ngài phải giải quyết cho chúng tôi thôi! Trong lúc cầu nguyện, Chúa chỉ giáo cho chúng tôi qua tiếng lạ của Evarsto Guzman. Để không còn chút nghi ngờ nào, thì Chúa cho tôi ơn giải thích thông điệp ấy:

- Hãy loan báo Tin Mừng cho dân Ta! Ta muốn có một đoàn dân ca ngợi.

Không nên sợ những đoàn tụ đông đảo Chúa đưa đến với chúng ta, để họ được nghe rao truyền Lời Cứu Độ. Ai sợ những kỳ công của Chúa, tức là sợ luôn “Vị Chúa của các kỳ công”.

Một số người ngạc nhiên, vì Chúa đáp lời cầu nguyện của họ quá mau lẹ. Tôi nói với họ rằng: nếu Chúa là Đấng tốt lành dường nào, mà không đáp lời cầu của họ, mới là điều đáng ngạc nhiên hơn:

“Trước khi chúng kêu cầu, Ta đã đáp lại; khi chúng còn đang nói, Ta đã nhận lời” (Is 65,24).

“Hãy xin sẽ được, hãy tìm sẽ gặp, hãy gõ cửa sẽ mở cho!” (Lc 11,9-13).

Đức cha Antonio Flores, Giám Mục La Vega, nghĩ sao về tất cả vụ này? Ngài rất cởi mở, nhưng lại rất ngại khi thấy báo chí, phát thanh, truyền hình làm rùm beng. Tôi đến thăm ngài và tìm thấy ngài trong nhà nguyện. Chúng tôi cùng cầu nguyện, sau đó đã đồng ý phân chia đám đông thành nhiều nhóm nhỏ, nhưng chúng tôi đã từng làm trước kia tại Nagua. Tôi trở về vui mừng, vì nhờ Thánh Thần, Giám Mục và tôi hoàn toàn đồng ý với nhau.

Ngay sau đó, chúng tôi nhờ phát thanh và truyền hình, để thông báo rằng: Các cuộc tụ họp quy mô, đông đảo từ nay tạm đình lại, và yêu cầu mỗi người về nhóm họp tại nhà thờ xứ đạo mình mà cầu nguyện.

Chúa có chương trình cho những biến cố tại Pimentel: thức tỉnh dân Ngài, lay chuyển Giáo Hội, đồng thời cho thấy rằng Ngài đang sống, và ban sự sống dồi dào cho những ai tin vào danh Ngài.

Từ đây, bắt đầu một cách làm việc mới, sâu hơn và tế nhị hơn; huấn luyện người phụ trách những nhóm cầu nguyện nhỏ. Cuối tuần, chúng tôi có một buổi tĩnh tâm cho những người tình nguyện dấn thân nhiệt tình nhất. Chúng tôi dẫn giải cho họ hiểu thế nào là nhóm họp cầu nguyện, là Canh Tân Đặc Sủng, Thanh Tẩy trong Thánh Thần và các đặc sủng là gì, và “Chúng tôi đã trao phó họ cho ơn sủng của Thiên Chúa” (Cv 20,32). Ba ngày sau, họ đã đảm trách việc hướng dẫn 45 nhóm cầu nguyện rải rác nhiều nơi trong xứ đạo. Có nhóm họp nhau dưới lùm cây, nhóm trong nhà thờ, nhóm tại các nhà tư và đây đó khắp nơi. Tất cả thành phố trở nên nhà cầu nguyện.

Để cho mọi người dán mắt nhìn vào Chúa Yêsu, chứ không phải vào một người phàm nào; thì đêm hôm đó, tôi rời xứ đạo. Chúa ở lại với họ và tiếp tục chữa lành bệnh nhân.

Năm 1984, trong một dịp viếng thăm nhằm ấn hành quyển sách này, người ta tặng cho tôi một cuốn vở ghi 244 chứng từ được chữa lành, do một trong những nhóm đã họp tại nhà của Guara Rosario, đường Colomb. Chỉ trong đêm 13-11-1985, đã có 22 chứng từ về ơn lành bệnh. Sau đó ít lâu, bởi số chứng từ quá đông, người ta thôi ghi chép. Chúng tôi có hỏi là Chúa còn tỏ uy quyền ra như trước không, thì họ trả lời cách đơn sơ hết sức:

- Không, bởi bây giờ không còn có các bệnh nhân như trước nữa.

6. Chúa Nhật Lễ Lá:

Chúa ngự đến khải hoàn, không những trong thành Pimentel, mà còn trong cả xứ và vượt qua biên giới nữa. Mọi sự đều diễn ra lạ lùng như mơ. Chưa bao giờ đời truyền giáo của tôi lại trở nên hấp dẫn và đẹp đến thế!

Cả phương tiện truyền thông, Chúa cũng dùng để chữa lành bà mẹ của một nhân viên giới thiệu chương trình truyền hình. Và chính anh ta đảm nhận việc làm chứng cho Chúa trước ống kính thu hình.

Chúa cũng vào Hạ nghị viện, để chữa lành một nữ dân biểu bị đau cổ.

Sau này, tôi được biết là nhà xuất bản tạp chí Pháp “Ngài vẫn sống”, đã biên thư hỏi Đức Giám Mục về sự xác thực của những việc xảy ra tại Pimentel. Ngày 15-10-1975, Đức Giám Mục đã phúc đáp ngyên văn như sau: “Lời chứng của cha Tardif là xác thực”. Thư của Ngài được đăng trên báo số 6-7 của tập san.

Trong những ngày đó, chúng tôi – như các Tông đồ trên núi Taborê – được nhìn ngắm vinh quang của Chúa. Chúng tôi chia sẻ với Chúa Yêsu điều mà Cha Ngài đã phán:

“Đây là Con Ta rất yêu dấu, Người được Ta sủng ái” (Mt 17,5).

Ngày 16 tháng 7, Chúa tiên báo, qua một lời tiên tri, cho biết là chúng tôi sẽ bị tấn công, chế giễu; nhưng chúng tôi không phải hoảng sợ, vì Chúa đã thắng thế gian.

Ba tháng sau, cha sở nghỉ hè về. Ngài rất ngạc nhiên về những gì ngài thấy và nghe dân chúng kể lại. Tất cả đều quá kỳ diệu, khiến ngài không thể tin nổi.

Chúa đã viếng thăm dân Ngài, khơi dậy một mãnh lực cứu độ trong xứ đạo của Ngài, xót thương người nhà của Ngài, thắp lên một tia sáng giữa bóng tối, để một khi được giải thoát khỏi mọi nỗi lo sợ, chúng ta có thể phụng sự Chúa cách thánh thiện và chính trực mọi ngày trong đời sống chúng ta (Kinh Benedictus).

Chúa đã chữa lành đàn ông và đàn bà, từ nhân viên cảnh sát đến trẻ con, những người từ xa đến và những bệnh nhân nan y. Chúa rao giảng Tin Mừng, loan báo Nước Trời cho dân Ngài, sử dụng các phương tiện truyền thông như báo chí, truyền hình. Quả thực, đó là một ngày Chúa Nhật Lễ Lá: Chúa ngự vào thành cách khải hoàn.

Khi tôi rời Pimentel để trở về Nagua, con đường đất vắng tanh. Gió lay nhẹ những cành lá chà là, và mơn trớn lá cờ đã từng chứng kiến những việc lạ lùng Chúa làm. Lòng tôi luyến tiếc nhớ đến những đám đông đã từng thấy. Lúc bấy giờ, có một chú lừa con đi qua, nhảy nhót vui vẻ, nhìn tôi với đôi mắt to, rồi nhô cả hàm răng, như cười nói với tôi:

- Ông chỉ là con lừa đã mang Chúa Yêsu đến làng này, và bây giờ ông phải quay về Betfagê thôi! Vinh dự, cành lá vạn tuế và lòng tri ân chỉ dành cho Đấng được ông chở trên lưng, chứ không phải cho ông. Phần ông, như Gioan Tẩy Giả, hãy nhỏ đi để Ngài lớn lên! Emiliano Tardif phải chết, để Chúa Kitô sống trong ông. Vinh dự của ông là Chúa Kitô được hiển vinh, đặc ân của ông là rao giảng Tin Mừng.

Con lừa vẫy đuôi, như nói với tôi: “Chào tạm biệt nhé!’, rồi nó xa dần. Còn tôi trở về Nagua, lòng đầy hân hoan, phấn khởi.

7. Tuần Thánh:

Mọi sự đã xảy ra như buổi hoàng hôn muôn sắc màu rực rỡ, và Chúa đã tỏ ra thật tuyệt vời hơn chúng tôi có thể tưởng. Khi cơn say tình Chúa chưa qua, thì đã có những áng mây đen ập đến che kín bầu trời. Đột nhiên, mọi sự tối sầm lại, mặt trời ẩn khuất đâu mất, cuồng phong, bão táp bắt đầu ào thổi dữ dội, nhưng tôi vẫn tin là Chúa đang ở với tôi.

Ông Bộ Trưởng Y tế tố cáo trên truyền hình là: tôi đã lạm dụng sự ngu dốt của dân chúng, làm cho họ tưởng đã lành bệnh. Ông ta nói tôi là một tên lang băm, lừa gạt dân chúng. Ông hỏi tại sao tôi không đi làm như vậy ở một nước đang phát triển như Canada.

Kẻ khác tấn công, bảo tôi là người ngoại quốc nên không hiểu gì về dân chúng ở đây, các phép lạ và việc chữa bệnh này sẽ đưa dân chúng đến sự phù phép, mê tín. Tôi đã trả lời rằng:

- Chắc chắn là tôi không biết dân chúng bằng họ, nhưng tôi biết rõ Chúa Yêsu, và Ngài không bao giờ đem đến mê tín, dị đoan. Trái lại, khi Chúa hành động, Ngài luôn làm tốt mọi sự, chúng ta không phải sợ.

Đài phát thanh, báo chí, đài truyền hình tấn công tôi dữ dội… Chỉ sau mấy hôm, tôi đã thành tay phù thủy và tên lừa bịp, bởi tôi tin và rao truyền Chúa Yêsu đang sống, đang cứu thoát và đang chữa lành dân Ngài, mà người ta cho tôi là điên khùng, là cuồng tín, v.v…

Các tờ báo trước kia đã thán phục tôi, thì nay – sau 24 giờ đồng hồ – đã trở mặt chống lại tôi. Nhờ đó, tôi học biết được một điều: vinh quang mà thế gian ban tặng quả là mong manh, chóng tàn, và lo nghe ngóng dự luận người đời cũng là một việc điên rồ. Chỉ trong vòng mấy tiếng đồng hồ, mọi hào quang, vinh hiển đều bị quét sạch. Phần tôi, tôi tin cậy vào Chúa Yêsu – Đấng hôm qua, hôm nay, ngày mai và mãi mãi là một, không đổi thay. Vì tôi không bận tâm đến lời họ khen tụng tôi, nên khi bị chỉ trích, tôi cũng chẳng mảy may giao động. Lòng tôi thật sự an bình.

Một số người tự xưng là tâm lý gia đến nói với tôi: những bệnh được chữa lành là do tác động của đám đông, hoặc do năng động cuồng loạn của tập thể; vì thế, đó là điều rất bình thường, không có gì là phép lạ cả. Tôi đáp lại họ cách đơn giản:

- Thế là các ông rất bất công; vì khi biết được cách chữa bệnh như vậy, mà các ông lại không tổ chức những cuộc tụ họp như thế mỗi buổi chiều, để chữa bệnh cho dân chúng trong xứ.

Những người khác cho chúng tôi thuộc loại duy cảm xúc. Tôi nói với họ là thuyết duy cảm xúc chỉ cố tìm cảm xúc vì cảm xúc; còn chúng tôi, chúng tôi tìm Chúa. Điều này mới thật là cảm động! Tìm thấy một kho tàng chôn giấu, là điều cảm động và hào hứng. Khi sự mừng rỡ tỏ hiện trên mặt một người, thì đó là dấu cho biết người đó đã tìm được kho báu.

Người khác đả kích sự “ấu trĩ” của dân chúng rằng:

- Đoàn lũ này chỉ đến vì tọc mạch và cũng vì các việc chữa bệnh.

- Không cần biết vì lý do nào mà họ đến! Điều đáng quan tâm là họ đã có mặt, để chúng tôi rao giảng Phúc Âm. Chắc chắn là Giakêu không leo lên cây sung để lần hạt, nhưng chỉ do tọc mạch, “muốn thấy Chúa Yêsu” (Lc 19,3).

Đôi vị linh mục bắt đầu châm chọc chua cay:

- Cha Emiliano được khỏi bệnh lao, nhưng mắc phải chứng loạn óc.

Bởi tôi cầu nguyện bằng tiếng lạ, và tôi tin vào quyền phép chữa lành của Chúa Yêsu Kitô, nên họ tưởng tôi hóa điên, đến nỗi họ đến hỏi là tôi có điên không. Tôi trả lời:

- Chính tôi, tôi cũng đang tự hỏi mình như thế, vì bây giờ, tôi chỉ nói về Chúa mà thôi!

Những linh mục lân cận ganh với tôi. Một số đề nghị Cha Giám Tỉnh Hội dòng của tôi trục xuất tôi ra khỏi xứ, vì theo họ nghĩ: với tất cả việc tào lao kia, tôi sẽ phá hỏng mọi cơ cấu mục vụ. Tôi trả lời:

- Chúa Yêsu không đến để cứu cơ cấu mục vụ, nhưng để cứu dân Ngài, và đó là việc duy nhất mà Chúa đang làm giữa chúng ta.

Họ tố cáo rằng tôi lôi cuốn giáo dân bỏ xứ đạo, nhưng tôi có mời ai đâu, tôi chỉ rao giảng Tin Mừng thôi.

Một vị linh mục nói là chúng tôi thổi phồng quá trớn, trong khi cần phải làm chậm rãi hơn. Ông ta lý luận:

- Nếu cha kể cho tôi về một vài phép lạ, thì tôi có thể bắt đầu tin. Nhưng khổ nỗi, nhóm Canh Tân Đặc Sủng các người điên rồi, chỉ biết nói phép lạ với phép lạ…!

Tôi trả lời:

- Chỉ vì cha chưa biết Chúa Yêsu thật sự là ai đó thôi!

Linh mục ấy đáp:

- Có chứ! Nhưng cứ xem ở Lộ Đức! Tại đấy có một văn phòng xét nghiệm Y khoa, nghiên cứu các trường hợp được chữa lành, và người ta bảo là có rất ít trường hợp lành bệnh bởi phép lạ. Còn cha thì ngược lại…!

Tôi đáp:

- Nhưng, thưa cha, tiêu chuẩn đức tin của chúng ta không phải là văn phòng xét nghiệm Y khoa Lộ Đức, song là Phúc Âm; mà Phúc Âm nói đến bao nhiêu là phép lạ. Thánh Marcô – vị Thánh Sử đầu hết trong 4 vị – đã thuật 18 phép lạ và chữa bệnh của Chúa Yêsu, trong 16 đoạn Phúc Âm. Nếu chúng ta bỏ những đoạn kể lại những dấu lạ và quyền năng của Chúa trong Phúc Âm Marcô, thì sách này chỉ còn lại mấy trang thôi. Nhiều người, vì muốn loại bỏ khía cạnh dấu lạ ấy, nên chỉ còn giữ lại một Phúc Âm bị cắt giảm, biến thành một giáo thuyết. Không! Phúc Âm là một sức sống! Ta cần phải cảm nghiệm và làm chứng cho sự sống ấy! Lần đầu tiên, Công vụ Tông đồ đề cập đến Kitô giáo, đã định nghĩa Kitô giáo là “sức sống” (Cv 5,20).

Người ta tấn công tôi tới tấp, khắp nơi – ngay cả những người tưởng là thân nghĩa với Chúa Yêsu. Thậm chí tôi phải viết một bài báo đăng trên tạp chí “Amigo del Hogar” tháng 08-1975, với tựa đề: “LỖI TẠI CHÚA YÊSU”, trong đó có đoạn tôi nói thế này:

“Khi đối diện với những nguy cơ thực sự có thể đưa đến cuồng tín do những phép lạ xảy ra, thì chúng ta lại rơi vào tình huống ngược lại, có khi còn trầm trọng hơn; đó là quên rằng: Thiên Chúa là Chúa Tể, có thể làm những điều-không-thể (Maitre de L’Impossible).

“Chữa bệnh, thực sự là một cách Chúa đáp lời cầu nguyện với lòng tin, như chúng ta đã thấy nhiều lần trong Tin Mừng. Lối cầu nguyện này có thể xuất phát từ bệnh nhân, hoặc từ những thân nhân, hoặc của cộng đoàn hay một cá nhân nào đó. ‘Chúa Yêsu hôm qua, hôm nay và mãi mãi vẫn là một’. Chính Ngài làm chủ lịch sử và Ngài thực hiện như ý Ngài muốn, không cần hỏi ý kiến hay xin phép để thực hiện những dấu lạ của Ngài. Chúng ta là ai mà dám chống lại, hoặc đặt giới hạn cho công việc của Thiên Chúa? Chúng tôi chắc chắn là Chúa không phản đối y khoa, nhưng sự thực là hàng ngày, biết bao người không có tiền đi khám bệnh, trả tiền bệnh viện, thuốc men…

“Có gì lạ khi Thiên Chúa quan tâm đến người nghèo và đích thân cứu giúp họ? Tại sao ngăn cản những kẻ tin lời Chúa Yêsu phán: ‘Hãy đến với Ta, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng! Ta sẽ bổ sức cho…’?

“Phải chăng chúng ta đã quen với thứ Kitô giáo theo tầm cỡ của chúng ta? Bằng những dấu chỉ này, Chúa cho chúng ta thấy Ngài đang sống. Ngài chất vấn chúng ta, vì nếu Ngài đang sống, thì mọi yêu sách của Ngài đều thích đáng. Vấn đề chủ yếu là Chúa Yêsu đang sống, chứ không phải chết rồi!”

Ít lâu sau, tôi nhận ra rằng mình đã phạm hai sai lầm qua bài báo này; đó là minh chứng sự việc chữa lành bằng cách nêu danh tánh và địa chỉ của những người khỏi bệnh, với ý nghĩ: chính những sự kiện hiển nhiên sẽ cảm hóa con tim của họ, chứ không do ơn đức tin. Tôi cho họ dấu bởi trời mà họ muốn thấy, nhưng không hoán cải được họ, vì dấu chỉ vẫn là dấu chỉ thôi! Duy có đức tin mới làm cho chúng ta nhận ra ý nghĩa của các dấu chỉ: đó là Thiên Chúa đã yêu thương con người, Đức Kitô đang sống, và Giáo Hội có quyền năng của Thánh Thần để phục sinh kẻ chết.

May thay, Chúa đã cho tôi hiểu và nhận ra rằng: đừng tìm cách chống lại những kẻ tấn công, đừng làm khác Chúa Yêsu, đã không tự biện hộ trước những kẻ tố cáo Ngài. Nếu tôi tìm cách tự vệ bằng những phương thế và lý luận riêng, tức là tôi không để Chúa bảo vệ tôi bằng đường lối và cách thức của Ngài.

Mặt khác, tự biện hộ cho mình thì chẳng khác chi từ chối không để Chúa thanh luyện. Qua những chống đối, những hiểu lầm, Chúa muốn uốn nắn ta theo hình ảnh Con của Người – Đấng đã phải trải qua đêm đen của Núi Sọ, để đạt đến vinh quang Phục Sinh.

Thời gian đã giúp chúng tôi xác tín rằng: lời nịnh hót nguy hiểm hơn lời chỉ trích; vì lời chỉ trích được ví như ngọn lửa thanh luyện và đốt cháy những bất chính trong lòng ta, còn lời xua nịnh đã từng bị Chúa Yêsu lên án gắt gao nhất:

“Khốn cho các ngươi, khi mọi người đều nói tốt cho các ngươi; vì cũng cách ấy, cha ông họ đã đối xử với các tiên tri giả” (Lc 6,26).

Vì vô ý thức, chúng ta quên mình chỉ là những bình sành bằng đất; song chính Chúa đã nhắc nhỏ chúng ta điều đó bằng thập giá của hiểu lầm và chống đối. Trong tình thương xót, Chúa thanh tẩy và hạ chúng ta xuống, để chúng ta không tự giành lấy vinh quang chỉ thuộc về một mình Chúa.

Thập giá ví như sa mạc, nơi Thiên Chúa hằng sống tỏ mình ra. Cần cởi dép ra, để được đến gần bụi gai bừng cháy. Lời chỉ trích chẳng khác nào tiền đường của Đền Thánh Chúa – nơi chuẩn bị chúng ta nên trong sạch, trong suốt – mà tiến vào Điện Thờ Thiên Chúa hằng sống…, dứt chúng ta khỏi mọi ràng buộc nguy hiểm nhất, mà ta gọi là những công trạng và “những hoạt động tông đồ” của mình.

Những chống đối ngày càng dữ dội và liên tục, đến nỗi tôi tưởng chừng không cưỡng lại nổi. Khắp nơi, người ta làm khốn tôi. Phần mình, tôi cảm thấy cô đơn trên một nẻo đường mới lạ. Bấy giờ, tôi xin một người chị em đầy ơn Chúa cầu nguyện cho tôi. Chị đó đã cầu nguyện và cho tôi một lời thông tri để trấn an. Chúa nói với tôi:

- Sau khi hưởng niềm vui của ngày Chúa Nhật Lễ Lá, con có thấy là bình thường, khi nếm thử một chút Tuần Thánh không?

Lời này đã chữa lành vết thương lòng tôi. Từ đó, tôi nhìn các vấn đề một cách xác đáng trong sự bình an trọn vẹn. Những lúc mọi sự đều êm xuôi, tôi nói: “Chúng ta đang ở trong Chúa Nhật Lễ Lá”. Nếu gặp khó khăn, tôi đơn giản xác quyết: “Đó là Tuần Thánh!”. Dù sao đi nữa, Phục sinh không còn xa… Vinh danh Thiên Chúa!

Trước khi thử thách chúng ta, Chúa Yêsu ban tình yêu Ngài cho ta; và khi Ngài yêu ta, Ngài luôn tặng thập giá Ngài cho ta. Thập giá là quà tặng của Thiên Chúa cho những kẻ Người yêu mến, nhưng thập giá không thể hiểu và đón nhận được, khi ta chưa cảm nghiệm được tình Chúa yêu ta. Trong kế đồ của Thiên Chúa, trước đồi Canvê, luôn có núi Tabo. Chúa đã cho tôi nếm thử vinh quang Tabo, nhưng không cho tôi cắm lều trên đó; Chúa đưa tôi xuống núi và thông phần vào thập giá của Ngài – thập giá cứu độ và đưa chúng ta đến Phục sinh.

Cuộc sống chúng ta diễn tiến như các mầu nhiệm Mân Côi: mầu nhiệm Vui có, Thương có, Mừng có; nhưng tất cả mỗi mầu nhiệm đều kết thúc bằng một lời chúc tụng: “Sáng danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”. Mỗi ngày, chúng ta sống một mầu nhiệm. Đời ta không chỉ là vui, thương, hay mừng; song là tất cả mầu nhiệm hòa trộn với nhau cho vinh quang Thiên Chúa. Thập giá và Phục sinh tựa như những bức họa của Rembrandt; trong đó, bóng tối và ánh sáng chen lẫn vào nhau để diễn tả cái đẹp.

Dân chúng mê ngủ, thụ động, chìm đắm trong ươn lười… Chúa đã đến và lay chuyển tất cả. Người ta hỏi các linh mục về những gì đã xảy ra; bởi đó, các linh mục đã phải đọc sách và tìm hiểu để trả lời thích đáng; ngay một ủy ban thuộc Hội Đồng Giám Mục cũng đã nhóm họp để cho ra một công bố. Việc này đối với tôi, thật rất quan trọng! Phần tôi, tôi tin chắc rằng: điều đang xảy ra là công việc của Chúa, nhưng tôi cần đến sự nhận định sáng suốt của các Giám Mục. Đối với tôi, các ngài là tiếng nói của Thiên Chúa. Các ngài phát hành một công bố với tựa đề: “Đức Thánh Cha phê chuẩn và khuyến khích những cuộc họp cầu nguyện Canh Tân Đặc Sủng”; dưới đó, có phụ đề này: “Đức Cha Pepen (Thư ký Hội Đồng Giám Mục toàn quốc) tán thành công việc của cha Tardif”.

Khi đọc bản văn này, tôi rất sung sướng; nhưng tôi lại phát cười nghĩ rằng: “Đâu có phải là công việc của tôi…!” Cũng như Thánh Giuse xưa, tôi có một điều chắc chắn là: sự sống đang nảy sinh trong lòng Giáo Hội không phải là của tôi.

Chẳng biết thế nào và tại sao, tôi nhận được lời mời của Đức Cha Carlos Talavera đến giảng cấm phòng cho các linh mục tại Guađalajara, Mêhicô. Bắt đầu từ đó, nhiều nơi khác đã mời tôi đến, để cao rao việc lạ lùng của Chúa tại các xứ Châu Mỹ La tinh.

Tôi bắt đầu thấy ló rạng một kỷ nguyên sáng lạn cho Giáo Hội. Tôi nghĩ đã đến lúc phải rao giảng trên các mái nhà, ngoài khuôn viên thánh đường, vì nhà thờ không đủ chỗ cho đám đông. Chúa dẫn chúng tôi đi đến tận cùng mặt đất, để làm chứng rằng Ngài đang sống… Khắp nơi, khắp chốn, đều được nghe thấy một điều:

“Người mù được thấy, kẻ què được đi, người cùi được lành, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại và Tin Mừng được loan báo cho người nghèo khó” (Lc 7,22).

Sau chuyến đi Panama, tôi trở về với nhiệm vụ cha xứ. Tôi chuẩn bị đi thăm cộng đoàn sâu tít trong núi. Tôi phải đi bằng lừa. Ngồi lắc lư trên lưng lừa, tôi trộm nghĩ:

- Ôi chao, con lừa của tôi thật khác xa với máy bay Boeing 747 của hãng PanAm biết bao!

Đường lối của Chúa quả thật tuyệt vời! Đi máy bay hay cưỡi lừa, chúng ta luôn là những sứ giả của Chúa, mười ngàn hay sáu chục ngàn người cũng là con cái của Chúa. Và những người bé mọn trên núi kia mới thật là người nghèo của Chúa. Chúa thật lạ lùng! Sau khi cho chúng tôi đi máy bay, bây giờ thì đặt chúng tôi trên lưng lừa, âu cũng là để dạy chúng tôi bài học khiêm tốn.

Trên lưng lừa, tôi hiểu được bài học lớn này: chúng ta được gọi, để đóng vai con lừa chở Chúa Yêsu vào thành Yêrusalem ngày Chúa Nhật Lễ Lá. Ơn gọi chúng ta là làm người chuyên chở Chúa Yêsu, chúng ta là bình sành chứa đựng một kho tàng quý giá bên trong.

Trước kia, chúng ta cố gắng nuôi một dân không biết đói khát Chúa. Tệ hơn nữa là chính chúng ta cũng không nếm hưởng được Bánh ban sự sống đời đời. Đến bây giờ, chúng ta vẫn không thể nuôi sống tất cả mọi người, mùa gặt thì nhiều, quá nhiều; nhưng Chúa còn lớn lao và quyền phép hơn.

Chúa đã nhóm lên đốm lửa, bây giờ là một đám cháy, ai có thể tắt nổi? Ấy cũng là dòng sông nước trường sinh đang tràn ngập Giáo Hội, để thanh tẩy, canh tân và thánh hóa Giáo Hội.

Nhiều cặp vợ chồng sống với nhau không hôn phối, đã ý thức là họ không thể tiếp tục sống như vậy nữa. Bí tích Hôn phối, đối với họ, nay đã trở nên quan trọng. Họ đã chuẩn bị nghiêm túc để đón nhận và sống Bí tích đó. Trong một năm, chúng tôi cử hành 306 đôi hôn phối; đó là một con số không dễ có.

Phép lạ lớn nhất Chúa ban cho tôi được chứng kiến trong những năm gần đây, đã khơi dậy những người thợ gặt cho mùa lúa của Ngài.

Bây giờ thì số giáo lý viên rất đông, đông đến nỗi chúng tôi thấy trách nhiệm trước tiên là đào tạo họ thành những người có khả năng rao truyền Tin Mừng.

Lễ Hiện Xuống năm 1976, chúng tôi có tất cả 120 giáo lý viên, và đã xin Chúa đổ Thần Khí Ngài xuống trên chúng tôi. Thần Khí không chỉ là một ơn sủng làm cho lòng trí chúng ta được hân hoan, nhưng còn là một sức mạnh đặc biệt, để loan báo cho thế giới biết là Đức Kitô đang sống và đang ban sự sống cho những ai tin nơi Ngài (Ga 3,15).

Tôi bắt đầu nhận những lá thư từ Pháp, Châu Mỹ La tinh, Phi Luật Tân; có cả những người gởi từ những nước mà tôi không thấy ghi trên bản đồ. Thỉnh thoảng, tôi nhận được thư bằng những ngôn ngữ và các dấu hiệu mà tôi không hiểu gì cả, tôi bèn đặt chúng vào tay Chúa, xin Ngài phúc đáp, vì Chúa biết mọi sự.

Tôi nhớ chưa bao giờ tôi có một sức khoẻ như hiện nay. Tôi ăn được mọi thứ, ngủ ngon. Chúa đã trả lại cho tôi sức khoẻ hoàn hảo, và tôi sung sướng được phục vụ việc rao truyền Tin Mừng cho dân Ngài.

Tuy nhiên, tôi tin là ơn lớn nhất Chúa đã ban cho tôi là niềm hoan lạc: tôi vui sướng không phút giây nào ngơi.

Chưa bao giờ tôi sống trọn vẹn chức linh mục của tôi như bây giờ!

(*) Ví dụ như Đặc sủng chữa bệnh. Có thể áp dụng câu hỏi của Thánh Phaolô đặt ra cho dân Galát: “Đấng đã… làm nên những việc quyền phép giữa anh em, phải chăng vì anh em hành động theo lề luật, hay vì lòng tin của anh em vào lời rao giảng?” (Gal 3,5).

0 nhận xét:

Đăng nhận xét