Pages

Hiển thị các bài đăng có nhãn Hong An Thien Chua. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Hong An Thien Chua. Hiển thị tất cả bài đăng

14/10/09

Ơn lạ Thánh Cả ban

1. Nhờ bà mẹ và các con cầu nguyện, con trai được cải hóa

Gần thành Granôpoli, nước Pháp, có một gia đình 5 người. Ông chồng chết sớm. Mẹ con làm ăn nuôi nhau. Bà mẹ có lòng đạo đức, luôn lấy lời nói gương sáng khuyên bảo các con, nhưng hai cô em thì ngoan, còn ông anh cả đi học xa ở Paris thì ôi thôi: phần xác thì ốm đau, phần hồn thì bê bối đủ điều, khô khan tội lỗi. Hắn không cầu nguyện, không dự lễ, mà khi thấy mẹ và các em cầu nguyện, hắn lại chê bai. Ba mẹ con hằng khuyên nhủ và kêu xin Chúa cải thiện hắn, nhưng vô ích, hắn cứng đầu hơn đá.

Mọi năm nhà này cứ tới tháng Ba là làm việc kính Thánh Cả Giuse. Năm ấy mẹ bảo hai con sốt sắng hơn để cầu nguyện cho người anh khô khan, tội lỗi được ơn cải thiện đời sống.

Hôm trước ngày mùng một, mẹ con trang hoàng bàn thờ Thánh Cả với hoa nến đẹp đẽ. Người anh đi đâu về thấy bàn thờ đã dọn thì hỏi: dọn làm gì? Mẹ trả lời:

- Mai là tháng Thánh Giuse, mẹ và các em có ý kính Người hơn mọi năm để cầu xin cho con được ơn ăn năn cải thiện trở về cùng Chúa, sốt sắng giữ đạo.

Con cả nghe vậy cười lớn và lắc đầu, tỏ vẻ khinh thường.

Ngày mùng một, hai, ba, khi mẹ và 2 em quì gối làm việc kính Thánh Cả, thì cậu con ngồi xa xa cười mẹ và các em mê tín dị đoan.

Nhưng từ ngày 7,8 trở đi, nó không cười nhạo nữa, nhưng ngồi yên lặng coi bộ suy tư lắm. Đến ngày mùng 10, hắn làm dấu Thánh giá và thỉnh thoảng gặt nước mắt trộm vụng kẻo có ai thấy và thở dài kêu thầm: Lạy Ông Thánh Giuse, xin thương linh hồn tôi.

Đến ngày 15, nó đến thú thật với mẹ rằng: Từ khi con bỏ Đức Chúa Trời, con bối rối lo âu luôn luôn. Nhờ dịp này, con quyết ăn năn cải thiện đời sống, xin mẹ cùng 2 em cầu nguyện để con được ơn cải thiện thật lòng.

Anh ta cầu nguyện và xét mình vài ba ngày, rồi đi tìm linh mục xưng tội rước lễ sốt sắng.

Từ ngày ấy trở đi, anh ta sống đạo rất tốt, làm gương cho các em và làm mẹ vui lòng lắm.

Sau 3 năm, anh ta mắc bệnh nặng, và được chết lành êm ái trong tay Thánh Cả Giuse Bổn mạng của anh ta.

2. Người nghèo bình an hạnh phúc chết lành/ Cứu khỏi dịch thương hàn/linh mục

Trong một tỉnh bên Pháp, phải dịch thương hàn chết nhiều người, nhất là người nghèo. Trong tỉnh này có một linh mục nhân đức, hay đi thăm kẻ đau yếu nặng.

Một hôm, linh mục vào trong căn nhà nhỏ, tồi tàn, thấy một ông già gần chết nằm trên ổ rơm. Nhà không còn đồ gì cả, vì ông đã bán hết để lấy tiền mua thuốc, chỉ còn cái rìu cái cưa treo ở tường là đồ thợ mộc của ông.

Linh mục khuyên ông chịu khổ vì Chúa để dọn mình ra khỏi nơi thế gian tội lỗi, mà vào nước thiên đàng vui vẻ vô cùng.

Nhưng ông già nói: ông không khổ, không buồn, vì từ nhỏ ông đã chọn thánh Giuse làm gương mẫu, làm người cầu bầu, nhờ ơn thánh cả, ông được vui lòng luôn, hạnh phúc trong cảnh nghèo khó, không buồn giận ai, chịu khó làm thợ mộc…

Từ hôm đó, ông già liệt còn sống thêm một tuần nữa, và được chết lành trong tay thánh Giuse là quan thầy những kẻ hấp hối.

3. Hai tu sĩ khỏi đắm tầu

Xưa có 2 thầy dòng thánh Phanxicô khó khăn vượt biển đến ngang xứ Frandria, thì gặp bão biển, tầu vỡ ra tan nát. 300 người trong tầu chìm xuống chết đuối cả, còn 2 thầy dòng may vớ được tấm ván, thì bám lấy, nổi lênh đênh trên mặt nước 3 ngày 3 đêm. Sóng giữa biển hằng giùa đi giùa lại, đưa lên đưa xuống luôn mãi, biết 2 thầy dòng ấy kinh khiếp sợ hãi cùng cheo leo liều mình chết là thế nào?

Nhưng 2 thầy ấy không ngã lòng, mà trông cậy vững vàng, cùng sốt sắng kêu van ông thánh Giuse, xin Người cứu chữa mình.

Hai thầy dòng chẳng trông cậy uổng công, vì đến ngày thứ 3, khi 2 thầy đã mệt nhọc hết sức, thì thấy một cụ già uy nghi tốt lành hiện ra trên đầu ván, yên ủi cho khỏi sợ hãi, lại lấy tay mình đẩy tấm ván vào bãi cát mà nói rằng:

- Ta là ông thánh Giuse, vì chúng con có lòng kính mến tôn kính ta, thì ta nghe lời chúng con cầu xin. Vậy từ nay chúng con phải năng suy ngắm 7 sự đau đớn cùng vui mừng của ta, thì chúng con sẽ được nhiều ơn lành.

Nói bấy nhiêu lời xong, thánh cả Giuse liền biến đi.

Hai thầy dòng quì gối xuống bãi cát ngợi khen, tạ ơn Thánh Cả Giuse hết lòng, rồi về nhà kể lại sự tích lạ này cho cả nhà Dòng nghe.

4. Thiếu nữ bệnh gần chết được cứu

Làng Montignac nước Pháp, có một thiếu nữ phải bệnh gì đó 2 năm rưỡi. Bệnh kì lạ, khi ăn uống gì vào liền ói ra ngay, dù là một hớp nước lã, cũng không giữ được. Cô gầy yếu đến nỗi, không ngồi lên, không đi lại được, đêm ngày chỉ nằm bằn bặt một chiều.

Cha mẹ cô mời nhiều thày thuốc nổi tiếng, họ cho cô uống nhiều thuốc lắm, nhưng bệnh cô không giảm, lại càng gia tăng. Cô Maria nằm chờ chết, vì cô quá yếu nhược.

Nhưng lúc gần chết, cô sực nhớ đến thánh Cả Giuse, là Đấng thương giúp kẻ yếu liệt và hòng chết, nên cô thiết tha cầu xin Người thưung cứu cô. Cô khấn rằng: Lạy Thánh Giuse là Đấng hay thương kẻ bệnh nặng không thuốc chữa, nếu Người cho con được khỏi bệnh này, con xin khấn dâng một lễ kính Người nơi bàn thờ, chính ngày dâng lễ, con sẽ xưng tội, rước lễ tạ ơn Người.

Cô khấn xong, thấy trong mình bắt đầu chuyển bệnh, sau ba ngày, cô được khỏi hẳn, chẳng khác gì cô chưa bị bệnh bao giờ.

Để chứng minh cho mọi người biết quyền phép Thánh Cả Giuse, những người chức việc trong làng Mongtinhac đã kí giấy làm chứng ngày 10/11/1870 rằng cô Maria đã đươc'c khỏi bệnh nhờ sự bầu cử caủ Thánh Cả Giuse quyền thế.

5. Thánh Phanxicô Salesiô lập Dòng tu

Đừng kể rất thánh Ðức Mẹ , thì thánh Phanxicô de Sale giám mục không kính mến thánh nào hơn Thánh Cả Giuse . Người ăn chay trước lễ kính thánh Cả, và chính lễ thì làm lễ trọng cùng giảng để ngợi khen thánh cả là bạn Ðức Mẹ đồng trinh, cha nuôi Chúa Giêsu , là gương khiêm nhường, trong sạch, vâng ý Thiên Chúa . Thánh giám mục nói: vì Thánh Cả Giuse có nhân đức và lòng ngay thật, nên Thiên Chúa đã chọn Người làm bạn Ðức Mẹ và cha nuôi Chúa Giêsu , trao phó 2 mẹ con cho Người trông coi.

Khi thánh giám mục này lập dòng Thăm viếng, người chọn Thánh Cả Giuse làm quan thầy dòng, khuyên những ai vào dòng phải nhận Thánh Cả Giuse làm cha, làm quan thầy và phải kính mến Người cách riêng. Người còn xây một nhà thờ kính Thánh Cả Giuse , dâng cho Người cuốn sách viết về "Dẫn đàng kính mến Chúa".

Ta nên noi gương thánh giám mục Phanxicô mà trông cậy kính mến Thánh Cả Giuse hết lòng và khuyên người ta kính mến trông cậy Người nữa. Điều này rất đẹp lòng Ðức Mẹ và Chúa Giêsu .

6. Cứu bà kia khỏi tội phạm thánh, ngại xưng tội

Trong sách Tháng Thánh Giuse do linh mục Barri chép, có kể chuyện sau:

Một bà đạo đức kia đã khấn giữ mình đồng trinh trọn đời, không lập gia đình. Bà đã giữ được nhiều năm. Chẳng may bà ấy bị ma quỉ cám dỗ mạnh lắm, nên đã thua và phạm tội. Bà ấy đi xưng tội ngay, nhưng khi xưng tội thì ngại ngùng xấu hổ, chẳng dám xưng tội ra.

Xưng tội xong, bà ấy áy náy mất bình an trong lòng, từ đó đâm buồn bã, sầu khổ.

Ít lâu sau, bà ấy lại đi xưng tội, và quyết tâm xưng tội cách thành thật cùng cha giải tội. Nhưng lần này bà lại xấu hổ mà giấu tội. Bà đã làm hư Bí tích Giải tội cùng Bí tích Mình Thánh đôi ba lần.

Sau cùng, vì bối rối lo âu quá sức, bà ấy chạy đến cùng Thánh Cả Giuse, cầu nguyện, kêu van Người ban sức mạnh cho mình thắng chước cám dỗ ma quỉ, cùng tính xấu hổcủa mình. Bà ấy lấy lòng sốt sắng làm tuần chín ngày kính Thánh Cả Giuse. Đến ngày cuối cùng, bà ấy thấy tâm hồn thay đổi, có sức mạnh để đi xưng tội mà chẳng còn sợ xấu hổ như trước, nên đã ăn năn tội cách chân thành và xưng tội cách dễ dàng không giấu giếm. Xưng tội xong bà được bình an, vui vẻ, sung sướng không còn lo âu như trước.

Bà ấy hết lòng tạ ơn Thánh Cả Giuse đã giúp mình. Từ ngày ấy cho tới chết, bà chẳng bỏ qua ngày nào mà chẳng làm việc lành kính Thánh Cả. Bà ấy đeo ảnh Thánh Cả trong mình ngày đêm.

Chính bà ấy đã kể chuyện này cho linh mục Barri và xin người chép vào sách để mọi người biết mà thêm lòng tin cậy kính mến Thánh Cả hơn.

7. Đón tiếp người nghèo được cứu rỗi


Trong nước Tâybanha, ở thành Valentia, có một người làm nghề buôn bán, người này có lòng sốt sáng kính mến Ðức Mẹ và ông thánh Giuse lắm. Ông ta nhớ lời Chúa Giêsu đã phán trong sách Kinh thánh rằng:"Ai cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, cho kẻ trần mặc...vì lòng kính mến Ta, Ta sẽ trả công cho như đã làm việc ấy giúp Ta vậy". Mỗi năm, khi đến lễ Giáng sinh, ông ta quen đãi cơm cho 3 người nghèo khó trong nhà ông: một ông già, một người mẹ ẵm con trẻ. Khi đã cho 3 người ấy ăn uống, cho áo mặc, cùng cho tiền nữa. Ông ấy làm như thiết đãi 3 đấng trong gia đình Thánh gia xưa.

Ông ta sống đến tuổi già mới chết. Khi gia đình họ hàng cầu cho ông ấy, thì ông ấy hiện về nói rằng:"Khi tôi gần chết, tôi thấy 3 đấng trong nhà Thánh gia hiện đến dạy tôi rằng:"Khi còn khỏe, con quen rước kẻ khó nghèo vào nhà con mà thiết đãi họ, có ý thiết đãi chúng ta, hôm nay chúng ta xuống rước con vào nhà chúng ta ở trên trời. Nói xong bấy nhiêu lời, tôi thấy 3 đấng rước tôi về thiên đàng, nên tôi đã được rỗi linh hồn rồi". Cám ơn mọi người đã cầu nguyện cho tôi.

8. Bị cám dỗ lỗi đức trong sạch, sao không cầu Thánh Giuse

Trong Sử ký Dòng Đức Mẹ Carmelô, có kể chuyện thầy dòng kia nhân đức lắm. Thầy hay bị cám dỗ về đức khiết tịnh. Khi thầy bị cám dỗ phạm tội xác thịt, thầy chống trả rất mạnh và cầu nguyện tha thiết, nhưng ma quỉ không chịu thua, cứ bày những hình ảnh xấu xa suốt đêm dài. Thầy chiến đấu tới gần sáng mới hết bị cám dỗ. Thầy liền tạ ơn Chúa đã thương mình.

Hôm sau, thầy cùng Bề trên dòng có việc đi sang tỉnh khác. Khi đi đường, 2 vị gặp một cụ già râu tóc trắng đẹp, cụ già hỏi chuyện thầy dòng:

- Sao đêm hôm qua, thầy bị cám dỗ phạm tội điều răn thứ sáu mà thầy không cầu cùng thánh Cả Giuse.

Thầy dòng ngạc nhiên không hiểu sao cụ già biết chuyện kín của mình, đang tính hỏi vài lời, nhưng bỗng cụ già biến mất.

Thầy dòng liền hiểu ngay chính Thánh Cả Giuse đã đến dạy cho thầy bài học tốt. Về sau, thầy luôn cầu cùng Thánh Cả mỗi khi bị cám dỗ, và thầy đã thắng cách dễ dàng.

9. Nhờ ảnh Thánh Giuse, thiếu niên 12 tuổi được ơn trở lại


Năm 1866, tại nước Pháp, có một thiếu niên 12 tuổi, phải bệnh thổ huyết, đã gần chết mà không chịu xưng tội. Bà mẹ đạo đức thiết tha cầu nguyện cho con, bà xin Chúa cho con được khỏi bệnh, nhất là cho con được ơn trở lại cùng Chúa. Bệnh của con càng nặng, càng thấy con gần chết, mẹ càng lo lắng tha thiết cầu khấn cho con. Khi thì bà khuyên nhủ con, khi thì bà nhờ người khác cầu nguyện cho, nhưng đứa con dù còn trẻ, cũng cứng lòng, chai đá, nhất định từ chối không chịu trở lại lo việc linh hồn, không muốn xưng tội, rước lễ gì cả.

Bà mẹ đau khổ vô ngần, nhưng không nản chí. Bấy giờ là tháng Ba, thánh kính Thánh Cả Giuse. Bà nảy ra ý tưởng lấy mẫu ảnh Thánh Giuse để dưới gối của con. Hai ngày sau, thấy con gần chết, bà lại lấy ảnh để vào tay nó. Khi trông thấy ảnh, nó quay mặt đi nơi khác, nhưng một lúc sau, khi thấy vắng người thì nó hôn mẫu ảnh.

Lúc ấy bà mẹ ở ngoài vào, thấy vậy liền nói:

- Con hãy vững lòng trông cậy Chúa, là Đấng nhân từ vô cùng, Người sẽ tha tội cho con.

- Nó trả lời: Tội lỗi con nhiều và nặng nề lắm chẳng Chúa nào tha cho đâu.

- Mẹ nó tiếp: Ảnh Thánh Giuse đấy, con hãy cầu cùng người, Người sẽ phù hộ con trước mặt Chúa.

Lúc ấy nó kêu lên rằng: Lạy Thánh Giuse là Bạn Đức Mẹ, là Cha Chúa Giêsu, xin cầu cho con.

Hắn kêu 2,3 lần, liền được ơn Chúa. Trước hắn chẳng muốn lo việc linh hồn, xưng tội rước lễ, chẳng muốn nghe ai khuyên nhủ, hắn thất vọng hoàn toàn, bây giờ hắn ăn năn sám hối, khóc lóc, kêu xin cho được dọn mình về đời sau.

Hắn đã được xưng tội, rước lễ sốt sắng. Ngày hôm sau hắn qua đời tốt lành, vào chính ngày lễ kính Thánh Cả Giuse.

10. Người rối đạo 17 năm được ơn chết lành

Câu chuyện do một cha xứ ở Pháp kể:

Từ 17 năm rồi, có 1 người lạc đạo đến cư ngụ trong giáo xứ của tôi, và cũng suốt 17 năm ròng rã ấy, tôi đã năng lui tới khuyên nhủ anh mau bỏ đàng tội lỗi, lầm lạc, để trở về, nhưng chẳng có mảy may hiệu quả.

Năm thứ 18, vào dịp tháng 7, anh ấy lâm trọng bệnh. Hay tin, tôi liền đến thăm anh, dùng đủ lời lẽ hợp tình thuận lý. Anh hiểu cả, nhưng vẫn cứng lòng và không hề tỏ dấu ăn năn. Sau cùng, vì đã gần tới giờ lễ, nên tôi chào từ giã anh:

- Tôi đi dâng lễ bây giờ đây và tôi sẽ đặc biệt nhớ đến anh trong thánh lễ này. Phần anh, cũng xin anh hãy hiệp ý cầu xin Chúa soi sáng mở lòng cho anh thấy rõ hơn đâu là nẻo chính đường ngay.

Tôi còn xin anh chị em họ hàng đến thăm anh cùng hợp ý cầu nguyện với tôi. Họ cũng là tín hữu Công giáo . . . Trước khi mặc áo lễ, tôi ra quì trước bàn thờ thánh Giuse 1 lúc, cầu xin ngài bầu cử cho kẻ lầm lạc ấy trở về với Hội thánh. Tôi thắp lên 1 cây nến trước tượng Thánh cả và thầm khấn rằng:" Nếu được thánh Giuse khấng nhậm lời soi lòng cho người lạc đạo trở về, tôi sẽ công bố ơn lành ấy trên báo cho sáng danh Thánh cả và cho giáo dân biết, để thêm lòng trông cậy kính mến ngài hơn". Lễ vừa xong, tôi trở lại thăm anh ta, và lần này, kỳ lạ thay, anh đã thay đổi rõ ràng. Tôi vừa lên tiếng chào hỏi, anh đã ngỏ lời với tôi xin từ bỏ con đường lầm lạc và tỏ ra những dấu ăn năn rõ rệt khác thường. Rồi anh vui mừng và sốt sáng lãnh nhận các Bí tích. Quá nửa ngày sau đó, anh qua đời bình an.

Tôi rất xác tín về ơn lành này của Thánh cả Giuse, đó là đưa người lầm lạc trở về với Hội Thánh và giúp họ bình an đi vào cõi sống vĩnh cửu.

11. Vợ chồng chết 5 con, được sinh ra nữa/Thánh Ý Chúa

Trong xứ kia về nước Pháp, có hai vợ chồng vừa giầu vừa ngoan đạo. Nhưng vợ chồng phải sự khó lớn, vì vợ mang thai con nào, con ấy liền bị chết trong bụng mẹ, không kịp lãnh phép Rửa tội. Các y sĩ nói rằng: tại bà ta có tật trong dạ, nên không bao giờ sinh được nữa.

Vợ chồng thấy vậy thì tin lời các thày thuốc, nhưng vẫn nài xin Chúa: nếu con mình không sống được, thì ít là cho nó được rửa tội trước khi chết để nó được rỗi linh hồn. Nhưng dù vợ chồng xin, thì cũng chẳng được, vì cả 5 lần thụ thai, con trẻ đều chết trong bụng mẹ, chẳng đứa nào được chịu phép Rửa tội.

Vợ chồng buồn bã quá, hầu như ngã lòng. May có một người chị em đã vào nhà dòng từ ngày còn nhỏ, nghe vợ chồng gặp tai nạn như vậy, liền viết thư bảo vợ chồng trông cậy cầu xin Thánh Cả Giuse , chắc Người sẽ cho được như ý.

Vợ chồng cùng kế chẳng biết làm sao, thì nghe lời nữ tu, hợp lòng cầu xin Thánh Cả Giuse .

Chẳng bao lâu, người vợ sinh được đứa con tốt lành, khỏe mạnh, đặt tên cho nó là Giuse, để mọi người biết, đứa bé ấy là ơn Thánh Cả Giuse , nó đã sinh ngày 6 tháng Thánh Cả Giuse .

Từ bấy giờ, vợ chồng ấy cùng các giáo dân trong miền được thêm lòng trông cậy kính mến Thánh Cả Giuse hơn nữa.

12. Thiếu nữ 17 tuổi tàn tật

Trong nước Pháp có một thiếu nữ 17 tuổi bị bệnh bất toại, không đứng lên, không đi lại được bước nào. Cô vẫn có lòng trông cậy kính mến Thánh cả Giuse, cô luôn van xin Thánh cả chữa cho mình khỏi què.

Đến năm 1867, trong tháng kính Thánh Giuse, cô càng trông cậy vững vàng hơn mọi khi, và xin các nhà dòng nhà trường gần đấy hợp ý với mình, xin Thánh cả trong một tuần chín ngày. Ngày lễ Thánh cả 19 tháng 3, cô nhờ người khiêng cô tới nhà thờ để cô dâng lễ, rước lễ kính Thánh cả. Cô tin thật: hôm ấy Thánh Cả sẽ thương chữa bệnh cô. Sau khi dự lễ, rước lễ và cám ơn Chúa, cô lấy lòng sốt sáng kêu van trước bàn thờ Thánh Cả một lúc lâu, nhưng bệnh cô vẫn còn như trước, không thay đổi chút nào, nên người ta lại khiêng cô về nhà. Quãng giữa trưa, tự nhiên cô thấy mình ước ao muốn khỏi bệnh hăng nồng hơn mọi khi, cô liền kêu van thầm trong lòng, xong cô sốt sáng đọc ngắm 7 sự đau đớn và vui mừng ông Thánh Giuse. Cô vừa ngắm xong, ông Thánh Giuse làm phép lạ chữa cô ngay.

Cô đứng lên đi lại trong nhà. Cha mẹ anh em thấy vậy, mừng quá, liền sấp mình tạ ơn ngợi khen Ông Thánh Giuse.

Từ ngày ấy về sau, người thiếu nữ khỏe mạnh đi lại làm mọi việc, chẳng còn dấu bệnh bất toại nữa.

13. Thanh niên khô đạo

Có một người con trai còn nhỏ tuổi, con nhà giầu có, học hành thông minh, nhưng khô khan phần hồn, rượu chè, cờ bạc trai gái, đủ giống tội. Cha mẹ, anh em khuyên bảo hết sức, nhưng vô ích. Nó không nghe lời dạy bảo, mà còn cố chấp liều mất linh hồn.

Bà mẹ là người đạo đức, thấy con mình hư hốt như vậy thì bà đau đớn buồn sầu lắm, đêm ngày cầu nguyện cho con được ăn năn trở lại, nhưng con trai ấy cứ mê theo đàng tội, không bớt chút nào.

Bà mẹ túng cực, không biết làm sao, thì liền làm tuần 9 ngày liên tiếp kính Thánh Cả Giuse . Nhưng dù bà ấy cầu nguyện ăn chay, hãm mình bấy nhiêu ngày, nhưng đứa con vẫn cứng lòng không lay chuyển. Bà mẹ nhất quyết không ngã lòng, cứ cầu xin van nài ông thánh Giuse ban ơn cho con mình.

Nhân thánh kính Thánh Cả Giuse, bà lại càng gia tăng cầu nguyện hãm mình hơn nữa.

Bà mẹ ấy không trông cậy vô ích, vì chính ngày lễ Thánh Cả Giuse , con bà mềm lòng, sau mấy ngày nó ăn năn trở lại cùng Chúa. Chẳng những nó chừa tội,nên người sốt sáng, lại còn xin vào Dòng Ðức Mẹ Carmelô là dòng kín khó khăn, cùng nổi tiếng là tu sĩ thánh thiện nữa.

14. Bà Cêcilia được cứu về nhà bằng an

Nữ Tu Xêcilia quê ở Milan có lòng kính mến Thánh cả Giuse cách riêng. Chị quen an chay hằng tuần và ngày thứ tư để tỏ lòng tôn kính ngài, và chị đã từng được ngài ban nhiều ơn lạ.

Có 1 lần, chị Xecilia cùng với 2 chị nữa hành hương sang đảo Sicile viếng nhà thờ Đức Mẹ. Viếng xong, các chị lên đò về lại đất liền thì gặp 1 tay lái đò ác ôn đã bỏ các chị đang đêm trên 1 bãi biển lạ. Đêm tối, lại xa làng mạc, các chị chỉ còn nước than khóc, sợ hãi. Giữa lúc ấy, các chị bỗng thấy 1 ông già rất đẹp lão đi ngang qua chào hỏi và muốn biết tại sao giờ này các chị còn ở đây khóc lóc như thế. Các chị sụt sùi kể lại cảnh ngộ của mình. Nghe xong, ông lão trấn an:

- Các chị hãy yên tâm, đừng khóc lóc nữa. Ta biết rõ chỗ các chị ở, ta sẽ đưa các chị về đến nhà bình an. Chắc các chị cũng chẳng có ai giúp, vậy ta có chú bé trai này sẽ mang giúp đồ đặc cho các chị.

Và đúng như lời đã hứa, ông lão đã đưa các chị trở về dòng bình an vô sự. Vừa bước vào đến cửa là các chị không còn trông thấy ông lão và chú bé đâu nữa. Chị Xêcilia lấy làm ân hận vì chưa kịp bày tỏ lòng tri ân. Nhưng mấy hôm sau, chị được Chúa soi sáng cho biết 2 nhân vật tốt bụng đó là Thánh cả Giuse va Thiên thần bản mạnh của chị. Từ đó, chị Xêcilia cũng thêm lòng sốt sắng tôn kính Thánh cả Giuse và cả nhà dòng của chị cũng đem lòng mộ mến ngài cách đặc biệt.

15. Thiếu nữ bị điên

Năm 1864, ở thành Rôma, có một thiếu nữ con nhà giầu sang tự nhiên bị bệnh điên. Không bao lâu, bệnh ấy phát nặng lắm, không mấy khi cô ta tỉnh táo, luôn bị lên cơn, không ăn không ngủ được. Đêm ngày chỉ nói dông dài, la lối, chạy khắp nơi.

Thiếu nữ bị bệnh gần một tháng mà đã trở nên gầy gò yếu đuối, ai thấy cũng thương tâm. Các thày thuốc nổi tiếng xa gần đã đến coi mạch, bốc thuốc mạnh, nhưng thuốc nào cô uống cũng không bớt, bệnh lại còn tăng thêm.

Cha mẹ cô ta thấy vậy thì không còn biết chạy chữa sao nữa, liền nhờ mọi người bà con, người quen biết, hợp ý với mình cầu xin van nài Thánh Cả Giuse chữa con mình.

Mọi người hợp ý cầu xin đã hơn 3 tháng, mà bệnh không giảm bớt chút nào, nhưng lạ thay, đến chính ngày lễ kính Thánh Cả Giuse thì cô ta tự nhiên khỏi bệnh, trở lại tỉnh táo, như chưa hề bị bệnh bao giờ. Ai thấy thế cũng tin rằng chính Thánh Cả Giuse đã chữa bệnh cho cô ta, nên người ta được thêm lòng tin cậy Thánh nhân hơn nữa.

16. Tu sĩ luyện ngục hiện về

Trong sách linh mục Allosa chép về sự kính mến ông Thánh cả Giuse, đã kể sự tích một thầy dòng thánh Augutinô như sau: Khi thầy dòng ấy vừa chết được mấy ngày, liền hiện về cùng thầy khác cùng dòng mà kêu van rằng:

- " Anh ôi, xin thương tôi, tôi phải giam trong luyện ngục chịu hình khổ quá trí anh hiểu chẳng được, vì khi còn sống, tôi khinh thường kỉ luật nhà dòng, lúc bỏ việc nọ khi bớt việc kia, xuýt nữa tôi phải sa hỏa ngục đời đời, nhưng Chúa đã thương tôi, vì từ nhỏ tôi vẫn có lòng kính mến Thánh cả Giuse cách riêng, cùng năng đọc kinh làm việc dâng kính Người. Thánh Giuse là Đấng rất mạnh thế trước mặt Chúa, Người đã cầu bầu cho tôi, nên Chúa tha cho tôi khỏi sa hỏa ngục, nhưng phải ở luyện ngục đau đớn khốn khổ lâu năm, xin anh thương cứu tôi".

Nói bấy nhiêu lời rồi thầy ấy biến đi.

88 Cả tỉnh khỏi bệnh dịch tả

Năm 1638, thành Avignon, nước Pháp, phải dịch tả chết nhiều lắm, chẳng có phương dược nào chữa được. Trong lúc túng cực, dân thành chạy đến kêu cầu Thánh Cả Giuse và khấn rằng: Nếu Ngài cứu thành cho khỏi dịch thì từ nay về sau hàng năm chúng con sẽ mừng lễ kính Ngài cách trọng thể.

Ôi! Thánh Giuse quyền thế và từ tâm dường nào! Chính ngày người ta khấn cầu thì thành Avignon và cả vùng lân cận đều khỏi dịch, chẳng còn ai chết vì chứng đó nữa.

Thành Avignon vừa thoát thì dịch tả lại lan sang thành Lyon. Nhưng thành này kịp theo gương thành kia mà kêu khấn Thánh Cả, nên cũng được thoát nạn.

17. Nữ tu bị cám dỗ lỗi khiết tịnh


Có một Nữ tu bị cám dỗ nặng nề về đức thanh tịnh. Ban đêm ban ngày, và ngay cả lúc đọc kinh cầu nguyện, trí lòng chị nặng bị ám ảnh bởi những tư tưởng xấu xa.

Thoạt đầu chị chống trả mạnh mẽ, nhưng lâu ngày chùn mỏi, chị như ngã lòng. Trong lúc buồn rầu bối rối, chị đã cầu cùng Ðức Mẹ "Lạy Mẹ đáng mến, con xin mẹ chỉ dạy Ðấng Thánh nào mạnh thế trước mặt Chúa và đẹp lòng Mẹ hơn cả, để con nhận làm quan thầy phù hộ qua cơn hiểm nghèo này!"

Cầu nguyện rồi, chị mệt quá liền thiếp đi. Bỗng mơ thấy Ðức Mẹ hiện ra bảo chị hãy nhận Thánh Giuse làm quan thầy và phó mình trong tay Ngài gìn giữ.

Tỉnh lại, chị vui mừng lắm, liền sốt sắng dâng linh hồn và thân xác cho Thánh Giuse. Quả nhiên cơn cám dỗ lui đi và sự bình an trở lại.

Về sau, một đôi khi kẻ thù có xông đánh, chị lại chạy đến nấp mình dưới áo choàng của Thánh Giuse và được toàn thắng.

18. Thánh nữ Têrêsa ca tụng

"Tôi chọn Thánh Giuse làm Bổn mạng , tôi phó trót thân tôi và mọi việc của tôi cho Người.

Tôi thú nhận rằng: Người đã phù hộ cứu giúp tôi quá sự tôi cầu xin.

Vì tôi biết Người rất có lòng thương và có thế lực trước Nhan Thánh Chúa, nên tôi khuyên mọi người tin cậy, kính mến Thánh Cả cách đặc biệt.

Trong nhiều năm, mỗi khi tới lễ kính Người (19/3), tôi thường xin Người ban ơn đặc biệt cho tôi, năm nào Người cũng thương ban như ý. Không ơn nào tôi xin Người mà Người từ chối.

Nếu ai không tin lời tôi nói, họ hãy lấy lòng trông cậy mà cầu xin Thánh Cả Giuse những ơn cần thiết, chắc chắn sẽ thấy lời tôi nói là thật, và sẽ biết: kính mến cậy trông Thánh Cả Giuse là điều lợi ích chừng nào?

"Từ trước tới nay, tôi thấy những ai kính mến Thánh Cả, đều chóng trở nên hoàn thiện. Thánh Cả thường giúp họ biết cầu nguyện và suy ngắm cao hơn. Ai không tìm được người khác giúp mình biết cầu nguyện và suy ngắm, hãy nhận Thánh Cả Giuse là giáo sư, sẽ thấy mình mau chóng biết cầu nguyện và suy ngắm cách tuyệt hảo".

19. Vợ chồng có 3 con trai, chết con trai 12 tuổi


Thánh Alphongsô kể lại rằng:

Có đôi vợ chồng kia rất đạo đức, sốt sắng và có lòng sùng kính thánh Giuse cách đặc biệt. Hai vợ chồng lại son sẻ nên hằng tin tưởng cầu xin với thánh cả Giuse. Rồi họ được nhậm lời, sinh hạ được 3 cậu con trai ! Điều đó làm cho lòng họ càng thêm đạo đức và mến mộ thánh cả, họ gia tăng làm việc lành, nhất là trong dịp tháng 3 kính Thánh cả.

Khi cậu cả lên 12 Tuổi, vào ngày lễ kính Thánh Giuse (19/3), cậu được rước lễ lần đầu. Nhưng rồi 1 giờ sau, cậu cả đã qua đời. Không lẽ đây lại là 1 ơn lành sao ? Dầu vậy, 2 vợ chồng kia vẫn không hề trách móc, oán thù, mà còn gia tăng lời cầu xin cho 2 đứa con còn lại đừng chịu chung 1 số phận như người anh cả. Thế nhưng, đến năm sau, cũng chính vào ngày lễ kính Thánh Giuse, cậu con trai thứ hai lại lăn ra chết bất thình lình như người anh năm trước. Khỏi cần nói cũng biết nỗi đau của hai vợ chồng kia lớn biết chừng nào. Tuy nhiên, họ vẫn không mất niềm tin.

Vào một đêm kia, trong lúc hai vợ chồng còn đang chong đèn than thở thì đượ Chúa cho thấy cảnh tượng 2 người thắt cổ chết, bên cạnh còn có người thứ ba, dáng vóc khỏe mạnh, mặc áo Giám mục. Rồi ngay lúc ấy, thánh cả Giuse lấy hình 1 ông già lão bước đến giảng giải:" Các con đau buồn làm chi. Hai đứa lớn nó sống thì sau này cũng sẽ sinh tật trộm cướp và sẽ bị án thắt cổ như cảnh tượng các con vừa thấy đó. Vì thương chúng và thương các con, nên Chúa đã đưa chúng đi khi chúng còn đang trong sạch. Còn đứa thứ 3 sau này sẽ cứu được nhiều linh hồn trong cương vị Giám mục". Nói xong, Thánh cả liền biến đi.

Hai vợ chồng được giải tỏa nỗi ưu phiền, họ không buồn đau nữa, và ngày càng tỏ rõ lòng kính mến Thánh cả Giuse, cũng như niềm tri ân đối với đức độ và sự khôn ngoan của Ngài. Về sau, đúng như lời ngài nói, đứa con thứ 3 khỏe mạnh, thông minh của họ đã theo ơn gọi giáo sĩ, làm Giám mục va giúp ích cho rất nhiều linh hồn.

20. Thiếu nữ 22 tuổi bệnh phù thũng

Xưa, trong tỉnh Briocô thuộc nước Pháp, có một thiếu nữ 22 tuổi bị bệnh phù thũng, phải nằm liệt giường chẳng nhúc nhích được chút nào.

Một ngày kia, khi cô đang nằm, có ông già vào xin ăn. Cô nói: Tôi cũng nghèo đói lắm, chẳng có của gì, người ta cho tôi miếng nào, tôi ăn miếng ấy. đây có mấy quả lê người ta mới cho, ông lấy một nửa.

Ông già nhận lấy mấy quả lê, và nói: Chị hãy vững lòng trông cậy cầu xin Thánh Cả Giuse , chị sẽ được khỏi bệnh. Khi chị khỏi được một năm, chị sẽ bị nặng hơn trước, nhưng đừng nản lòng, hãy tiếp tục cầu xin Thánh Cả Giuse , Người sẽ chữa khỏi hẳn cho. Nói xong, ông già đi khỏi, không trở lại nữa.

Thế rồi, cô ta cầu xin Thánh Cả Giuse một tuần 9 ngày, sau đó cô được khỏi bệnh. Năm sau, cô bị lại nặng hơn năm trước. Cô không nản lòng, lại tiếp tục cầu xin Thánh Cả Giuse .

Chính ngày lễ Thánh Cả Giuse, dù bệnh trở nặng hơn mọi ngày, cô cũng nhờ người khiêng cô đi dự lễ, rước lễ kính Thánh Cả.

Ngợi khen quyền phép Thánh Cả Giuse đã thương người khốn khó, dù những ngày trước, cô không thể cử động, chỉ nằm một chỗ, thế mà giờ đây, cô tự nhiên đứng lên đi rước lễ mạnh mẽ như mọi người. Rước lễ xong, cô xuống quì nơi đã nằm trước, như không hề mắc bệnh tật gì.

Thấy mọi sự xảy ra như lời ông già ăn xin nói trước, cô liền tin thật đó chính là Thánh Cả Giuse đã đến báo tin và chữa bệnh cho mình. Mọi người biết bệnh tình cô ta trước kia nay đã khỏi, thì tin thật là phép lạ Thánh Cả Giuse đã thương chữa cô. Hai người khô khan đạo nghĩa, nay thấy phép lạ cũng được ơn ăn năn trở lại đàng lành.

21. Đàn bà nghèo khỏi bệnh

Tại thành Chiavari bên nước Italia, có một phụ nữ, phần hồn đạo hạnh, nhưng phần xác khó nghèo túng thiếu, hằng ngày đi làm thuê kiếm của nuôi thân. Không may, khi làm việc, thì vô ý bị thương chân đau đớn lắm. Chân sưng lên, và sau lại thối rỗng ra, không còn đi lại được. Thầy thuốc bảo: bệnh này lâu khỏi và tốn tiền lắm. Người đàn bà không còn đi làm được thì không có cơm ăn, còn nói gì tiền chữa bệnh. Bà ta trở nên túng cực lắm.

Đức Chúa Trời soi sáng cho bà ta trông cậy cầu xin Thánh Cả Giuse chữa cho mình. Bà ta từ trước tới nay vẫn có lòng kính mến Thánh Cả Giuse, và treo ảnh Người trong nhà để tôn kính. Bà sấp mình trước ảnh Thánh Cả , cầu xin Người thương giúp mình trong cơn khốn cực này. Cầu xin một lúc, bà ấy lấy ảnh Thánh Cả vẽ dấu thánh giá trên chân mình hai ba lần.

Lạ thay, tạ ơn Thánh Cả đã thương kẻ túng cực, cô đơn: làm dấu thánh giá xong, bà ta thấy chân bớt đau, và vài hôm sau khỏi hẳn, bà ta đi lại được, và đi làm kiếm ăn như trước.

22. Vua nước Áo xin có con trai

Vua thượng vị Lêôpolđô I là tông đồ truyền bá sự sùng kính Thánh Giuse rất nhiệt thành. Vua Lêôpolđô I (1640-1705) là vua nước Áo, đã 40 tuổi mà chưa có con nối quyền. Vua liền sốt sắng cầu khẩn Thánh Giuse xin ban cho có con trai.

Ðể chứng tỏ lòng trông cậy, vua ra chiếu chỉ tôn Thánh Giuse làm Ðấng bảo trợ các vua nước Áo. Ngài lại truyền đúc tượng Thánh Cả bằng bạc, yêu cầu các linh mục dâng thánh lễ và tổ chức rước kiệu kính Ngài đủ tám ngày. Khỏi chín tháng, Hoàng hậu sinh hạ một con trai, nhà vua và dân chúng xiết bao hoan hỉ. Ðể nhớ ơn Thánh Cả, nhà vua truyền đặt tên Thái tử là Giuse và khấn đúc một tượng lớn Thánh nhân bằng bạc đặt tại quảng trường thành Vienna.

Nhưng vua cha băng hà khi chưa kịp thi hành lời khấn. Vua con là Giuse I (1678-1711) nhớ mình bởi đâu mà sinh ra, cũng có lòng kính mến Quan thầy lắm. Ngài truyền đúc tượng Thánh Giuse rất lớn bằng bạc, xây bệ cao giữa kinh đô và tôn đặt lên chính ngày lễ Thánh Giuse năm 1709, y như lời vua cha đã khấn năm xưa.

23. Cụ già 86 tuổi chết lành

Tại một giáo xứ vùng Lyon, người ta còn nhắc tới gương sáng đời sống của một cụ già đạo hạnh, qua đời năm 1859, thọ 86 tuổi. Cụ có lòng tôn kính Thánh Giuse cách nhiệt thành. Sáng tối hằng ngày đọc kinh xin Ngài ban ơn chết lành. Các ngày thứ tư, cụ quen ăn chay, làm phước, bố thí. Hằng năm, cụ mừng trọng thể lễ Thánh Giuse mà cụ coi là một ngày trọng nhất đời.

Một ơn nài xin suốt 50 năm, lẽ nào bị từ chối?

Ngày 15 tháng 3 năm 1859, cụ ngã bệnh, được lãnh đủ các bí tích, lòng đầy sốt sắng, nêu gương sáng cho mọi người.

Chính ngày 19 tháng 3, cụ xin linh mục dâng lễ kính Thánh Cả và xin người ta đọc kinh phó linh hồn. Thánh lễ vừa xong, thì cụ ngước mắt lên trời. đặt hai tay chéo lên ngực, kêu rõ ràng ba tên cực trọng Giêsu Maria Giuse, rồi tắt thở êm ái dịu dàng.

Linh hồn cụ lìa thế tạm để về Thiên đàng hưởng phúc cùng Thánh cả muôn đời.

24. Kẻ có tội được ơn chết lành

Linh mục Isidorô kể truyện một người sang trọng giầu có quê ở thành Venise trong nước Ý. Ông này vốn treo ảnh Thánh Cả Giuse trong nhà và hay quì gối cầu nguyện trước ảnh ấy. Ông này tuy có cầu nguyện đôi khi, nhưng đi đàng tội lỗi bê bối, và chẳng hề xưng tội bao giờ.

Khi ông ta bị bệnh nặng gần chết, vợ con khuyên ăn năn xưng tội, nhưng ông ta ngại xưng, và nghĩ mình chưa đến nỗi chết, nên khoan giãn không xưng. Nếu Thánh Cả Giuse không phù hộ, chắc ông ta chết trong tội và sa hỏa ngục.

Khi ông ta bị mê man, thì mơ thấy một cụ già đẹp đẽ tốt lành giống như hình Thánh Cả Giuse treo trong nhà, hiện ra khuyên ông ta lo việc linh hồn mau lẹ kẻo không kịp. Cũng lúc ấy, ông ta được ơn thấy tội mình đã phạm tràn trề...đáng hình phạt hỏa ngục thế nào. Ông ta liền ăn năn hối hận hết sức. Khi tỉnh dậy, ông ta xin xưng tội ngay. May cho ông ta chừng nào. Khi linh mục giải tội xong thì ông ta liền từ bỏ cõi đời này.

123 Thanh nữ bệnh dịch tả được chữa khỏi

127 Bố thí, chia sẻ cho người nghèo vì Thánh Cả

25. Thánh Cả phù hộ cho kính Người được ơn chết lành


Linh Mục họ đạo Munster ở nước Đức, vừa đi ngủ thì có một cụ già đến gõ cửa xin mời cha đi kẻ liệt. Cha lần mò mãi mới tới được căn nhà chỉ định, thì thấy im như tờ, mặc dù cha đã gõ cửa nhiều lần. Lúc sau chủ nhà mới mở cửa, hỏi cha đến để làm gì ? Nhà đâu có ai đau yếu.

Nhìn chủ nhà râu tóc bạc phơ như ông già lúc trước đến xin cha đi kẻ liệt. Cha ngạc nhiên đáp :
- Hồi nãy chính ông đã đến gọi tôi đi làm phúc cho kẻ liệt mà.
Chủ nhà trả lời :
- Không, nhà tôi không có ai đau cả. Mẹ tôi cũng vẫn khỏe.
Hai bên đều ngạc nhiên. Bỗng chủ nhà nghĩ lại :

- Có lẽ mẹ tôi chiều nay mới bị cảm, nên Chúa cho gọi cha đến chăng.

Thế rồi hai cha con lên lầu thăm cụ. Thì ra cụ bà bị đau nặng. Ban các phép cho bệnh nhân xong cha hỏi :

- Xưa nay bà có tôn kính vị Thánh nào không ?

- Thưa cha có, con vốn tôn kính Thánh Giuse và hằng ngày con xin Ngài cho con được ơn chết lành.
Một giờ sau thì bà tắt thở. Mọi người kết luận : Chính Thánh Giuse đã đóng vai ông lão đến mời cha đi kẻ liệt.

26. Linh mục tội lỗi được ơn trở lại

Ở Thủ đô Paris, có 1 vị Linh mục lâu năm rồi vẫn sống trong tội lỗi, gây nhiều gương xấu. Linh mục này có 1 người anh là Linh mục dòng. Thấy em sống ngang trái, lầm lạc, hại họ đạo, xấu xa gia đình, người anh đã tìm hết cách, khuyên lơn có, rầy la có, nhưng xem ra vô hiệu. Cuối cùng, người anh chạy đến kêu cầu Thánh cả Giuse. Ngài dâng lễ kính thánh Giuse suốt 9 ngày và đồng thời xin một số anh chị em giáo dân hợp ý cầu nguyện.

Nội vụ, dường như đã bắt đầu chuyển biến. Người em tội lỗi lâm bệnh, gần chết. Trong lúc thập tử nhất sinh này, người em suy đến tội lỗi mình chồng chất nặng nề và được ơn thống hối ăn năn, chê ghét quá khứ tội lỗi và quyết tâm cải chừa, cùng sẵn sàng đền bù thiệt hại do những gương xấu của mình đã gây ra . . . Ôi, thật là lạ lùng ! Thánh cả Giuse đã bảo trợ cho Linh mục ấy chẳng những được sống lại phần hồn mà còn được phục hồi sức khỏe phần xác nữa.

Khi nghe biết rằng đó là nhờ ơn Thánh cả Giuse đã đoái thương, vị Linh mục kia đã cảm động biết bao và hứa sống xứng đáng để đáp đền phần nào ơn nghĩa của Thánh cả. Và quả thật, nhờ ơn Thánh cả, vị Linh mục kia sau này sống rất vững vàng trên con đường hồi tâm, luôn trao dồi nhân đức, nhiệt thành cứu giúp các linh hồn và nhất là luôn tỏ lòng tôn kính, trông cậy, học hỏi các nhân đức của Thánh cả Giuse để được ơn bền đỗ.

27. Cứu gia đình 7 người nghèo túng

Tại Paris, nước Pháp, có 1 gia đình nghèo 7 người: 2 vợ chồng và 5 đứa con. Các con thì còn nhỏ, chưa có sức làm việc, người chồng lại thường hay đau yếu, nên chỉ còn người vợ làm thuê chạy ăn cho cả nhà.

Năm 1865, người chồng đã bệnh nặng hơn đúng vào lúc người vợ thất nghiệp, nên gia đình họ càng thêm túng bấn. Đồ dùng trong nhà đem bán lần hồi để chạy thuốc cho chồng và chạy gạo cho con. Đến sau, không còn gì để bán nữa, chị đem cả áo cưới của mình đi bán, nhưng bị trả rẻ, nên phải đem về.

Trong lúc buồn rầu vì túng cực ấy, chị quyết chạy đến thánh Giuse xin ngài cứu giúp cho. Chị vợ vào nhà thờ, quì cầu nguyện hồi lâu trước bàn thờ Thánh Cả, rồi cảm thấy an lòng, chị ta ra về, lòng đầy tin tưởng sẽ được thánh cả nhậm lời cầu. Quả thật, khi vừa về đến nhà, chị gặp 1 người đem lại trả cho chị 1 món tiền khá lớn đã vay từ lâu mà chị đã tưởng mất mất luôn, không mong gì lấy lại.

Chẳng bao lâu, nhờ có tiền chạy chữa, chồng chị đã lành bệnh. Phần chị cũng đã có công ăn việc làm trở lại, và gia đình dần dần cũng đã có của dư. Chắc chắn đó là do lòng thương và lòng cảm thông của Thánh cả Giuse, nên gia đình chị ngày càng sùng kính và tri ơn Thánh cả hơn.
144 Nữ tu bị cám dỗ bỏ dòng

28. Ảnh thánh Cả Giuse chữa cháy

Một tu sĩ Dòng Norbertô kể lại tích này : Bên cạnh tu viện chúng tôi có một nhà làm ăn vô ý bị phát hỏa. Chẳng may lại gặp ngày gió lớn. Dân làng tấp nập chạy chữa, nhưng vô hiệu, lửa sắp lan sang nhà Dòng.

Thấy vậy, chúng tôi vội vào nguyện đường thắp một ngọn đèn trước tòa Thánh Giuse và nguyện rằng : Nếu ông Thánh Giuse cứu chữa nhà Dòng thì chúng tôi xin thắp đèn đủ 8 ngày để tạ ơn. Khấn rồi gió còn to lắm và lửa càng bốc cao.

Trong khi đó, các thầy đã chạy đồ đạc ra sân. Tôi liền vào phòng riêng xem còn sót gì không. Thấy mẫu ảnh Thánh Giuse còn treo trên tường, tôi vội gỡ lấy chạy ra ngoài sân, miệng lâm râm kêu khấn, tay liệng mẫu ảnh vào đống lửa.

Ôi quyền thế Ngài thật lớn lao, lời cầu của Ngài mạnh thế trước mặt Thiên Chúa chừng nào ! Vừa ném ảnh vào lửa thì lửa liền dịu xuống, khỏi một lúc thì dập tắt được hỏa hoạn. Ngày hôm sau khi dọn dẹp nhà cửa, tôi thấy mẫu ảnh còn nguyên vẹn chẳng cháy, chẳng xém, cũng chẳng nhom nhem chút nào cả.

Tạ ơn ngợi khen Thánh Cả chẳng bỏ lời kẻ trông cậy chạy đến cùng Ngài trong cơn khốn quẫn.

21/9/09

Bệnh viện Đa Khoa Jesus

BỆNH VIỆN ĐA KHOA GIÊSU
Số 1 Đường Lên Trời, Phường Ánh Sáng, Quận Hạnh Phúc, Thành Phố Tình Yêu.
Toa thuốc
cho năm 2009
Tôi đến bệnh viện Đa khoa của Chúa Giêsu để kiểm tra sức khỏe định kỳ và nhận ra là mình bệnh nặng:

- Khi bác sĩ đo huyết áp xong, tôi phát hiện mức DIỆU HIỀN của mình quá thấp.

- khi kiểm tra nhiệt độ thì nhiệt kế chỉ 40 độ ÂU LO

- Đo điện tâm đồ, thì kết quả lại cho thấy rằng: Tôi thiếu máu trầm trọng, phải truyền thêm máu TÌNH YÊU, vì các động mạch của tôi đã bị tắc nghẽn do " ÍCH KỶ" và " CHUA CHÁT", nên chúng không thể nào đưa máu lên con tim đầy trống rỗng của tôi được.

- Tôi sang khoa chấn thương chỉnh hình, vì hiện không có khả năng bước đi bên cạnh người anh em của mình được nữa. Tôi không thể quàng tay THÂN ÁI, vì tay đã bị gãy do việc vấp ngã vào những GANH TỴ, HỜN GIẬN và VÔ LỐI.

- Đến khoa mắt, kết quả thật thảm hại, tôi bị cận thị quá nặng, vì mắt tôi KHÔNG THỂ NHÌN THẤY NHỮNG KHUYẾT ĐIỂM CỦA MÌNH mà chỉ nhìn thấy được những khuyết điểm của THA NHÂN.

- Khi tôi trình bày với bác sĩ GIÊSU rằng tai tôi bị điếc. Người bảo đó là hàng ngày tôi không chịu lắng nghe tiếng của Ngài, và tiếng của bao người bất hạnh đang sống quanh tôi.

- Do lòng nhân hậu, bác sĩ Giêsu đã khám bệnh miễn phí cho tôi. Và khi ra về Ngài trao cho tôi toa thuốc THỜI GIAN để chữa trị: Đó là nên có những giờ phút gần gũi, thân mật với Ngài trong giờ cầu nguyện trong lúc Hiệp Lễ. Đó là những giờ phút quý báu nhất trong ngày để phục hồi.

- Sáng thức dậy, tôi cần uống một ly CẢM TẠ

_ Trước khi đi làm, tôi cần dùng một muỗng BÌNH AN

- Mỗi giờ một lần, tôi cần thay lớp băng NHẪN NẠI, và dùng một chút nước KHIÊM NHƯỜNG

- Đi làm về, tôi cần tiêm một mũi TÌNH YÊU

- Và trườc khi đi ngủ, tôi cần phải uống mấy viên thuốc bổ là THA THỨ và HÒA GIẢI những xích mích đã xảy ra trong ngày.
Bác sỹ : GIÊSU-KITÔ

20/8/09

Vì Sao Tôi Theo Đạo Công Giáo?

Những người quen thân tôi đều biết rằng tôi là người mới làm lễ quy y theo Đạo Phật cách đây khoảng hơn 2 năm. Nói là theo Đạo Phật nhưng thật ra tôi yêu mến và cảm thấy gần gũi với Đức Quan Thế Âm Bồ Tát nhiều hơn và cũng nhờ vậy mà cuộc sống của tôi đã trở nên vui vẻ và hạnh phúc hơn những năm về trước, vì tôi cảm nhận được sự khác biệt giữa một cuộc sống có Đạo của ngày hôm nay và đời sống không có Đạo của ngày hôm qua.
Nhưng gần đây (cuối năm 2004) tôi và 2 đứa con tôi đã bắt đầu theo học chương trình giáo lý căn bản của Công Gíáo tại Nhà Thờ Saint Jane Frances tại North York (Canada). Hai đứa con tôi, đứa con trai 17 tuổi và đúa con gái 14 tuổi đã được rửa tội hôm lễ Phục Sinh ngày 26/3/2005. Còn tôi thì chuẩn bị về Việt Nam rửa tội vào tháng 8/2005.
Lý do tôi về Việt Nam rửa tội là vì dòng họ Nội Ngoại 2 bên nhà tôi từ bao đời nay, tôi là người đầu tiên theo đạo Công Giáo. Vì thế tôi muốn nhân cơ hội nầy đưa cả nhà tôi ở đây về VN để giới thiệu cho gia đình 2 bên biết thêm về Thiên Chúa và ước nguyện rằng cơ hội nầy sẽ là ngọn lửa Thiêng soi sáng tất cả mỗi tấm lòng mọi người trong gia đình và là chiếc cầu nối liền giữa gia đình tôi cùng Thiên Chúa.
Có rất nhiều người đã hơi ngạc nhiên vì tôi chỉ trong một thời gian ngắn đã tin chắc chắn vào Thiên Chúa và việc theo Đạo "ào ạt" của mọi thành phần trong gia đình chúng tôi, nên đã hỏi tôi rằng "nguyên nhân nào đã khiến chúng tôi có một Đức Tin mãnh liệt và chắc chắn vào Thiên Chúa như vậy? Chúng tôi đã thấy gì và đã cảm nhận được gì nơi Thiên Chúa? Có phải chăng chúng tôi đã miệt mài đi tìm Chúa bấy lâu nay va ngày hôm nay chúng tôi đã tìm gặp Ngài hay là chính Ngài đã tìm gặp chúng tôi, những con chiên thất lạc tự bao đời."
Đọc hồi nãy tới chừ mà chẳng nghe tôi nhắc tới chữ "chồng", chắc các bạn nghĩ rằng tôi là "single mom" hả? Không phải đâu, cũng may còn có một người chịu khó lấy tôi làm vợ nên tôi cũng có chồng như ai, nhưng khổ nỗi là khi lấy nhau thì ổng mạnh ù và 4 năm nay thì ổng bịnh triền miên đau khổ, bịnh té lên, té xuống, bịnh đến nỗi mà nhìn lên trời chẳng thấy trời, nhìn xuống đất không thấy đất, nhìn chung quanh chẳng thấy ai và nhìn lại chồng mình cũng chỉ thấy có bịnh mà thôi. Đúng là bịnh đến độ không còn thấy trời trăng mây gió gì cả, mà đâu phải mấy cái bịnh tầm thường như đau đầu, sổ mũi mỗi mùa, mỗi năm vẫn thường xảy ra ở cái xứ lá phong này, mà là bịnh ung thư gan ngặt nghèo mà ai nghe tới cũng rùng mình rởn tóc gáy. Ai đã mang vào thân thì cơ hội sống được 5 năm chỉ có 5% mà thôi (theo cancer therapy guide xuất bản năm 2003). Nhưng cái khổ là chồng tôi đâu có phải chỉ bị ung thư gan 1 lần mà thôi đâu, chỉ trong vòng 3 năm rưỡi thôi, ổng đã bị bệnh ung thư gan tái phát đến 6 lần, tất cả là 9 cái khối u (tumors), cái lớn nhất là 13. 5 cm và cái nhỏ nhất là 1. 5cm.
Bệnh ung thư gan của chồng tôi tái phát lần thứ 6 vào cuối tháng 10 năm 2004. Khối u lần này phát triển rất nhanh và kỳ lạ: trong vòng 6 ngày mà phải ra vào phòng cấp cứu đến 4 lần. Sau nhiều lần thử nghiệm và xét nghiệm thì các Bác Sĩ tại bệnh viện Princes Margaret tại Toronto đã báo cho chúng tôi biết là "sorry nothing we can do". Khi biết bệnh không còn cách chữa trị, họ chuyển chồng tôi qua một Bác Sĩ khác để thi nghiệm một loại radiation mới ra đang còn trong thời kỳ thí nghiệm ở giai đoạn 1 (phase 1 clinical), nhưng người bác sĩ thực hiện cuộc thí nghiệm này đã đi vắng 3 ngày sau mới trở lại bệnh viện. Vì thế chúng tôi phải về nhà chờ đợi 3 ngày sau sẽ trở vào bệnh viện cho họ thử thuốc.
Sau khi về đến nhà thì có một người bạn đem đến tặng cho chồng tôi một chai nước Thánh có hình Đức Mẹ Lộ Đức và có kể cho chúng tôi nghe sơ sơ về Đức Mẹ và từ đó do một sự đánh động vô cùng mãnh liệt đã dẫn đưa chúng tôi đến một quyết định không suy nghĩ là đi Lourdes ở bên Pháp để cầu nguyện với Đức Mẹ Lộ Đức (vì nếu có suy nghĩ thì không thể đi được, và đi có thể sẽ chết trên đường đi). Chỉ có một ngày đi, một ngày ở và một ngày về.
Chúng tôi chỉ có một ngày ở với Đức Mẹ mà may mắn thay lại đúng vào ngày lễ lớn mỗi năm chỉ tổ chức một lần của các người dân miền núi. Có 3 vị Hồng Y chủ lễ, hơn 100 Giám Mục và soeurs, khi chúng tôi lần mò ra tới hang đá (Grotto) nơi Đức Mẹ hiện ra thì người ta đã vây quanh và đầy nghẹt cả mọi nơi. Chúng tôi cố len lỏi một hồi mà chẳng tới đâu, quay đầu nhìn về hướng hang đá cũng không thể nhìn thấy tượng Đức Mẹ đâu cả. Trải qua bao nhiêu khó khăn muốn đến tận nơi để dâng lời cầu nguyện với Mẹ mà bây giờ đứng xa như vậy làm sao mà cầu nguyện với Mẹ được. Tôi buồn và thất vọng vô cùng nên nhìn về phía hang đá mà khấn rằng "Lạy Mẹ, chồng con bịnh hoạn từ xa đến đây tìm Mẹ mà bây giờ đứng xa quá không nhìn thấy Mẹ, xin Mẹ thương xót cho chồng con vào trong được không !".
Lạ lùng thay chưa dầy mấy phút sau thì bỗng một người đàn bà người Pháp đang giữ trật tự tại đó đến dắt chồng tôi vào bên trong và cho ngồi sau lưng các vị Giám Mục và đối diện với tượng Đức Mẹ nơi hang đá. Khi chồng tôi vào được bên trong thì tôi vui mừng lắm. Nhưng mừng chưa xong thì lại lo lắng vô cùng, vì chồng tôi sức khoẻ rất yếu nếu có việc gì ai lo cho ảnh đây! Vì thế chẳng còn cách nào khác hơn là tiếp tục cầu nguyện. Tôi lại tiếp tục thì thầm với Mẹ " Mẹ ơi ! Mẹ cho con vào trong để con có thể nhìn thấy chồng con được không Mẹ. "...
Chỉ vài phút sau thì lại có một người giữ trật tự dắt tôi vào bên trong khu Thánh Lễ có ghế ngồi đàng hoàng, tuy ở đây không gần chồng tôi lắm, nhưng nhìn từ xa tôi có thể thấy thấp thoáng bóng dáng của chồng tôi. Được như vậy đã là may lắm rồi, vì trong khu Thánh Lễ chỉ ưu tiên cho những bệnh nhân đi xe lăn và những người bệnh nằm trên băng ca hoặc những ai có bổn phận thi hành Thánh Lễ mà thôi. Vì số ghế chỉ có vài trăm mà số người lại đến mấy ngàn người. Sau khi xảy ra những việc nầy tôi mới thấy thế nào là sự mầu nhiệm của sự cầu nguyện và ngay lúc nầy lòng tôi đã cảm thấy gần guỉ với Đức Mẹ và Chúa hơn bao giờ hết.
Tối hôm đó ngày 7/11/2004 cũng là tối cuối cùng tại Lộ Đức (Lourdes), tôi cứ lang thang quanh khu nhà Thờ cầu nguyện và suy niệm về sự mầu nhiệm cuả Đức Tin và lòng thương xót mà Mẹ đã ban cho tất cả những ai đang khốn khổ mà có lòng tin đến đây cầu xin cùng Mẹ và nhất là lòng thương xót mà Mẹ đã ban cho tôi ngày hôm nay.
Trời đã bắt đầu vào mùa Đông, mà Lourdes là miền núi nên vào ban đêm trời lạnh dữ lắm, nhất là vào lúc nửa đêm. Nhìn quanh khuôn viên nhà Thờ rộng lớn bao la không còn một bóng người, nhìn lại hang đá nơi Đức Mẹ hiện ra chỉ còn lại một bà cụ già đang quỳ gối, hai tay lần chuỗi mân côi, bà dùng hai đầu gối già nua quỳ trên sàn đá lạnh buốt và lê từng bước nặng nề, chậm rãi nhưng cương quyết van xin một điều gì đó vô cùng thành khẩn và tự tin.
Nhìn vào Đức Tin của bà cụ, cõi lòng tôi tự nhiên lòng dâng một niềm tin mãnh liệt vô bờ bến và tôi tiến dần về phía hang đá dưới chân tượng Đức Mẹ, nơi chồng tôi đang cúi đầu, hai tay ôm lấy vách đá lòng sụt sùi dâng lời cầu nguyện. Tôi yên lặng một lát rồi đặt một tay lên vách đá và tay kia đặt trên đôi vai gầy guộc đang run run vì xúc động của chồng tôi, tôi vô cùng đau khổ và xót xa cho số phận của chồng tôi, cõi lòng tôi bỗng vỡ ra từng mảnh, những dòng nước mắt từ trong linh hồn tôi đang tuôn ra. Tôi như chìm vào một không gian vô tận và tôi bắt đầu cầu nguyện, những lời cầu nguyện bây giờ không phải bằng trí óc hay con tim mà là những lời cầu nguyện từ trong linh hồn đang hoà tan vào trong nước mắt dâng lên Mẹ.
"Mẹ ơi! chồng con đã bị bệnh quá ngặt nghèo đã không còn cách chữa trị, chúng con đến đây để cầu xin với Mẹ và chỉ biết một lòng cậy trông vào Mẹ mà thôi, xin Mẹ vì lòng xót thương cầu bầu cùng Chúa Giêsu cứu lấy chồng con, CUỘC ĐỜI CÒN LẠI, CON NGUYỆN XIN THEO MẸ " và đây chính là lời nguyện ước giữa tôi và Thiên Chúa.
Đến nửa đêm trời trở nên lạnh hơn, chúng tôi tạ ơn Mẹ ra về. Trên đường về, chúng tôi ghé lại bên dòng suối mà năm xưa Đức Mẹ đã biến thành dòng nước Thánh và đã chữa lành bíết bao bệnh nhân có đức tin đến đây cầu xin cùng Mẹ. Chồng tôi đứng lại, dâng lời cầu nguyện và uống nguyên một chai nước Thánh rồi đi thẳng một hơi về khách sạn mà không cần sự giúp đỡ của tôi, cái lưng cũng không còn khom khom như ngày hôm qua nữa. Tôi vô cùng kinh ngạc nhưng chẳng dám nói gì, cứ âm thầm quan sát mọi việc. Thật đúng là "Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho" (Lc 9, 10)
Chiều hôm đó khi về tới nhà tại Mississauga, Ontario, Canada, chồng tôi đang loay hoay đem bức tượng Đức Mẹ đặt trên bàn thờ, còn tôi đang lăng xăng sửa soạn bữa ăn tối thì ngay lúc đó đứa con trai của tôi chạy xuống ôm lấy vai tôi mà hỏi rằng "Mẹ ơi khi nào con rửa tội?".
Tôi kinh ngạc vô cùng vì cả nhà tôi chưa có ai học Giáo lý bao giờ và cũng chưa có ai nói với nó việc theo Đạo Công giáo. Tôi hơi sững sờ một chút nhưng trong lòng rộn rã một niềm vui vì tôi biết rằng ơn Chúa đang đổ xuống nhà tôi. Tôi quay lại và nói với con trai tôi rằng "Nếu con muốn được rửa tội để theo Chúa thì con phải đi học lớp Giáo Lý trước cái đã". Con tôi đồng ý và mấy hôm sau thì chúng tôi liên lạc với Cha Giuse Phạm Ngọc Tuấn, nhờ sự nhiệt tình và lòng thương mến đến gìa đình chúng tôi, cha đã sắp xếp mọi thứ và mấy tuần sau thì cả gia đình chúng tôi theo học khóa Giáo Lý vừa qua và 2 đứa con của tôi đã nhận Bí Tích rửa tội vào đêm Lễ Vọng phục Sinh ngày 26/3/2005.
Còn phần tôi như đã thưa ở trên, tôi phải "rán" mà dời lại đến tháng 8 về Việt Nam rửa tội, mục đích là đem Tin Mừng về chia sẻ cùng gia đình hai bên và với ước nguyện rằng, nhân cơ hội nầy Chúa sẽ thương xót mà đánh động mỗi tâm hồn trong gia đình hai bên và ước mong một ngày nào đó, những tâm hồn nầy sẽ quay về với Chúa. Tôi xin bạn hãy cầu nguyện cho gia đình tôi thật nhiều để những lời nguyện ước của tôi sẽ trở thành sự thật.
Mấy tháng nay gia đình chúng tôi đang sống trong mầu nhiệm của Đức Tin và hồng ân của Thiên Chúa, qua hình ảnh Đức Mẹ và sự mầu nhiệm của biến cố nầy tôi đã thấy gì nơi Thiên Chúa? Và cuộc đời tôi biến đổi ra sao?
Viết đến đây tôi lại nhớ đến một người bạn trong "Chương trình Thăng tiến Hôn nhân Gia đình" tuần vừa qua đã mời tôi đến dự một buổi họp mặt hàng tháng tại Liên Gia 12 và bài Thánh kinh được chia sẻ hôm đó lại là bài dụ ngôn nói về "Nước Hằng Sống" và Chúa đã ví "Nước Trời giống như chuyện kho báu chôn giấu trong ruộng. Có người kia gặp được thì chôn giấu laị, rồi vui mừng đi bán tất cả những gì mình có mà mua thửa ruộng ấy." Mt 13, 44.
Càng suy niệm tôi càng cảm thấy như đây là một lời nhắn nhủ mà Chúa đã dành riêng cho tôi, mà Mẹ là NGƯỜI đã âm thầm chỉ cho tôi kìa là Nước Hằng Sống và tôi phải làm gì để có được Nước Trời nầy đây ! Lạy Chúa, con thật chẳng có gì xứng đáng để bán, để mua, con chỉ có cuộc đời còn lại nầy và mỗi ngày trôi qua là một ngày con xin dâng lên Mẹ và Chúa.
Đến bây giờ thì bạn đã biết vì sao tôi theo Đạo Công Giáo rồi phải không?
Tôi kể lại câu chuyện nầy là để Vinh Danh và tạ ơn Đức Mẹ Lourdes, Người đã đưa tôi về với Chúa và cũng để cảm ơn:
Cha Giuse Phạm Ngọc Tuấn, người đã hướng dẫn và dìu dắt tôi qua những đoạn đường, những khúc quanh của cuộc hành trình đức tin mà lòng tôi nhiều khi như mơ hồ lạc mất Chúa.
Cảm ơn tất cả các anh chị em trong Chương Trình Thăng Tiến Hôn Nhân Gia Đình và nhất là anh chị em trong liên gia 10, đã cầu nguyện cho chúng tôi trong suốt thời gian qua.
Cảm ơn Thầy Lân, Thầy Hoàng và Soeur Hà đã hướng dẫn gia đình tôi qua lớp Giáo Lý khóa 2004-2005 và tất cả quý vị trong ban Mục Vụ Cộng Đoàn Việt Nam ở North York, Canada.
Và xin đặc biệt xin chân thành cảm ơn mẹ đỡ đầu Theresa-Maria T. Hương và nhất là anh Toản, người đã chia sẻ buồn vui mỗi ngày với chúng tôi và cũng là người đã dìu dắt 2 chúng tôi trong suốt hành trình chuyến đi Lourdes đầy nước mắt hồng ân nầy.
Maria Nguyễn Thị Xuân

20/7/09

Tôi tin kính

jademt
12-09-2005, 07:57 PM
Biên Soạn : Soeur Jean Berchmans Minh Nguyệt

TÔI TIN KÍNH MỘT THIÊN CHÚA LÀ CHA TOÀN NĂNG,
ĐẤNG TẠO THÀNH TRỜI ĐẤT, MUÔN VẬT HỮU HÌNH VÀ VÔ HÌNH.

1. TÔI TIN

http://img236.imageshack.us/img236/7610/tc010rj.jpg Trong truyền thống Kitô Giáo có hai Kinh Tin Kính quan trọng: Kinh Tin Kính của các Tông Đồ và Kinh Tin Kính của hai Công Đồng đầu tiên của Giáo Hội : Công Đồng Nicée (325) và Công Đồng Constantinople (385). Cả hai Kinh Tin Kính chứa đựng những tín điều buộc phải tin và phải tuyên xưng. Đặc biệt, Kinh Tin Kính Nicée-Constantinople là Kinh phát biểu đức tin chống lại những bè rối và cũng là Kinh chúng ta đọc khi tuyên thệ ngày chịu Phép Rửa Tội và trong các thánh lễ Chúa Nhật cũng như trong các thánh lễ trọng.

Kinh Tin Kính các Tông Đồ bắt đầu : Tôi tin kính Đức Chúa Trời / là Cha Phép Tắc vô cùng / dựng nên trời đất.

Kinh Tin Kính Nicée-Constantinople tuyên xưng : Tôi tin kính một Thiên Chúa / là Cha Toàn Năng / Đấng Tạo Thành trời đất muôn vật hữu hình và vô hình.

Trong Kinh Tin Kính, mỗi một tín điều phải tin và phải tuyên xưng đều được khởi đầu bằng câu: “Tôi tin kính..”.

Trong ngôn ngữ thường ngày, khi nói: “Tôi tin bạn” có nghĩa : “Tôi tin tưởng nơi bạn, tôi xác tín bạn nói sự thật”. Hoặc : “Tôi tin nơi điều bạn nói” hàm ý : “Tôi xác tín điều bạn nói phù hợp với thực tại khách quan”. Đi xa hơn, “TIN” có nghĩa là: chấp thuận và nhìn nhận là đúng, là phù hợp với thực tại, điều mà một người hay nhiều người nói, vì điều đó đáng tin. Tính cách đáng tin này tùy thuộc cùng lúc hai yếu tố: người nói và điều nói. Người nói là người đáng tin cậy và điều người đó nói phù hợp với sự thật đáng tin..

Trên bình diện tôn giáo, con người không thể sống mà không tin. Tin là nhu cầu khẩn thiết hơn cả hít thở. Ngay cả khi một người quả quyết không tin tưởng gì ráo trọi, người ấy vẫn tin tưởng nơi một cái gì đó ! Nguyên sự kiện nói rằng : “Tôi không tin nơi Thiên Chúa” giả thiết một niềm tin khác. Chẳng hạn, người ấy chỉ tin nơi chính mình, hoặc rất có thể, chỉ tin nơi tinh thần kiêu căng của riêng mình ! Nhưng để mà tin, phải nói là ai ai cũng tin. Giống y như tư tưởng vậy. Một người không thể không nghĩ tưởng gì ráo trọi ! Khi bạn nói: “Tôi không muốn nghĩ” hoặc “Tôi không tin nơi Thiên Chúa” thì chính hai câu này lại minh chứng là “bạn đang nghĩ”, hoặc “bạn không muốn tin nơi Đấng mà bạn biết rõ là Ngài hiện hữu thật sự”.

Bà Harumi, một phật tử Nhật bản nói : “Đối với tôi, không có ai là người vô thần thật sự. Chẳng hạn anh tôi, thường tự xưng là vô thần, nhưng vẫn đến chùa thắp nhan, đốt nến để khấn vái Trời Phật xin cho con trai anh được thi đậu. Không ai là người vô thần thật, nhưng chỉ có những người thiếu hiểu biết hoặc không được học hỏi gì về đạo giáo mà thôi.

Kinh Tin Kính các Tông Đồ và Kinh Tin Kính Công Đồng Nicée-Constantinople mà chúng ta tuyên xưng hàng ngày, hàng tuần và vào các dịp lễ trọng, chứa đựng những tín điều đáng tin, do chính các Tông Đồ và những Người kế vị các ngài, là những người đáng tin, thông truyền lại.

TÔI TIN KÍNH ĐỨC GIÊSU KITÔ, ĐẤNG CỨU CHUỘC.

ĐỨC GIÊSU KITÔ VẪN LÀ MỘT, HÔM QUA CŨNG NHƯ HÔM NAY VÀ NHƯ VẬY MÃI ĐẾN MUÔN ĐỜI.

... Vào thời kỳ nước Nga sống dưới chế độ cộng sản vô thần, chính quyền tìm mọi cách xóa bỏ Kitô-Giáo ra khỏi tâm lòng và đời sống của người dân. Để đạt mục tiêu, nhà nước dùng đủ thứ thủ đoạn và phương tiện, đứng đầu là giới văn nghệ và truyền thông. Đó là lý do giải thích sự xuất hiện vở kịch mang tựa đề: “Đức KITÔ mặc áo choàng cưỡi ngựa (redingote)”.

Khi các bảng quảng cáo được dán đầy các bức tường thành phố Moscou, tức khắc gây tiếng vang lớn. Mọi người xôn xao bàn tán và mong mau đến ngày vở kịch được trình diễn. Ai ai cũng muốn biết nội dung vở kịch ra sao, bởi lẽ, người đóng vai Đức GIÊSU là Alexandre Rostovtchev, một kịch sĩ vừa nổi danh tài ba vừa khét tiếng vô thần .. Ngoài ra, các nghệ sĩ tên tuổi khác cũng đều có mặt trong vở kịch.

Vào buổi trình diễn đầu tiên, nơi rạp hát lớn của thủ đô không còn một chỗ trống. Các khán thính giả gồm đủ hạng người: từ trí thức đến thường dân, từ sang đến hèn, từ già đến trẻ, từ người có tín ngưỡng đến kẻ vô thần. Mỗi người dấu ẩn một tâm tình riêng tư ngổn ngang khó diễn tả.

Khi bức màn từ từ kéo lên, mọi người như nín thở. Màn đầu tiên dĩ nhiên là một chuỗi những công kích, chê bai, nhạo báng và xúc phạm đến Giáo Hội Công Giáo, đặc biệt là các buổi cử hành Phụng Vụ Thánh. Chẳng hạn, nam tu sĩ là những tên say rượu. Nữ tu là các cô gái điếm. Cả hai nhóm thay nhau lải nhải những bài ca tình, bắt chước cung giọng các đan sĩ hát kinh Thần Vụ.. Nếu màn một trình diễn Kitô Giáo thối nát, bệ rạc như thế, chính là để báo hiệu màn hai, giới thiệu Đức KITÔ, Ông Tổ của Kitô Giáo. Nếu Kitô Giáo tàn lụi như vậy, thì có nghĩa người khai sinh ra nó cũng chả ra gì!

Khi bức màn được kéo lên, nghệ sĩ Alexandre Rostovtchev xuất hiện trong vai Đức KITÔ, mặc áo thụng trắng của người Do-Thái. Chàng có nhiệm vụ trình diễn một Đức KITÔ ủ rũ buồn rầu vì thấy mình bị thất bại với Kitô Giáo. Do đó, Đức KITÔ nhất quyết viết lại Phúc-Âm, thay đổi giáo huấn của Ngài, một giáo huấn không hợp thời .. Và Đức KITÔ, thay vì mặc áo chùng trắng, Ngài sẽ mặc ”áo choàng cưỡi ngựa” đúng điệu các chàng hiệp sĩ Tây Phương ở thế kỷ 20 này .. Có thế, sứ điệp của Ngài mới được lắng nghe.

Điểm chính yếu trong màn hai của vở kịch được trình diễn Đức KITÔ với bài giảng trên núi về các “Mối Phúc Thật”. Theo chương trình, Rostovtchev cầm trên tay cuốn Phúc-Âm, sẽ đọc hai câu đầu của bài giảng, rồi vứt mạnh cuốn sách vào xó và nói: Hãy trao cho Ta chiếc áo khác, hợp thời trang và trao cho Ta các phương tiện khác hữu hiệu hơn cuốn sách cổ hũ này!.

Bằng giọng run run cảm động, Rostovtchev đọc hai “Mối Phúc” đầu tiên:
- Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ. Phúc thay ai hiền lành vì họ sẽ được Đất-Hứa làm gia nghiệp ..

Đọc xong, chàng đứng im bất động. Cả hội trường im lặng như tờ. Nổi xúc động của chàng kịch sĩ như truyền sang các khán thính giả. Sau giây phút im lặng ngỡ ngàng, khán thính giả như bừng tỉnh. Nhiều tiếng huýt sáo nổi lên, nhắc chàng phải trở lại vai trò của mình. Thế nhưng, bằng một giọng rõ ràng và cương quyết, Rostovtchev đọc tiếp các “Mối Phúc” còn lại:
-Phúc thay ai sầu khổ .. Phúc thay ai khao khát nên người công chính .. Phúc thay ai xót thương người .. Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch .. Phúc thay ai xây dựng hòa bình .. Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính .. Phúc cho anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa. Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao (Mt 5, 5-12).

Đọc xong, Rostovtchev ngước đôi mắt sâu thẳm nhìn đăm đăm khán thính giả. Chàng nhìn nhưng không thấy khán thính giả đã từ từ đứng lên ngay sau khi chàng đọc “Mối Phúc” thứ ba .. Chàng như mất hút trong tư tưởng huyền nhiệm của các “Mối Phúc”. Xong, chàng trịnh trọng giơ tay làm dấu Thánh Giá và lớn tiếng cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin Ngài nhớ đến con khi nào Ngài ngự vào Vương-Quốc của Ngài!” Và chàng đột ngột rời sân khấu. Bức màn vội vàng buông xuống. Trong nhóm khán thính giả, nhiều người cũng giơ tay làm dấu Thánh Giá và không cầm được nước mắt .. Có người thì thầm lời nguyện: “Lạy Chúa GIÊSU, xin thương xót con tội lỗi!”

Buổi trình diễn bị bỏ dở tại đó. Một thất bại vĩ đại cho nhà nước cộng sản. Nhưng là một thành công lớn lao cho Kitô Giáo. Không ngờ chàng kịch sĩ vô thần Alexandre Rostovtchev lại làm nổi bật khuôn mặt độc nhất vô nhị của Đức GIÊSU KITÔ: Đấng Cứu Độ, hôm qua, hôm nay và mãi mãi ....
________________________________________

18/7/09

CHỘT MẮT VÌ XEM MẸ

Cha Silvain Razzi thuật lại: Ở Paris có một Linh mục đạo đức, thánh thiện, rất nhiệt tâm tôn sùng Đức Mẹ. Cha ao ước ít là một lần được xem tận mắt vẻ mỹ lệ của Đức Mẹ mà cha đã từng được nghe ca tụng. Cha đã cầu nguyện rất nhiều cách khiêm nhượng để được ơn đó. Lời cha đã được thẩm nhậm, Đức Mẹ phái một Thiên Thần xuống nói với cha:
- Cha sẽ được xem thấy Đức Mẹ với điều kiện sau đó sẽ không còn được xem thấy gì trên đời này vì sẽ bị mù cho đến chết.
Linh mục thánh thiện đó nhận ngay không ngần ngại. Và Đức Mẹ đã hiện ra. Nhưng để khỏi bì mù hoàn toàn, cha đã nhắm một mắt lại để xem. Thấy Đức Mẹ đẹp lạ lùng, niềm vui tràn ngập cõi lòng đến nỗi mê man, cha bèn mở mắt kia ra để nhìn cho thoả, nhưng chưa kịp mở thì Đức Mẹ đã biến mất. Buồn bã tràn ngập cõi lòng, cha chỉ còn biết khóc, không khóc vì đã mất 1 mắt, nhưng vì đã không mở cả hai mắt mà nhìn cho kỹ. Cha bắt đầu cầu nguyện xin Đức Mẹ hiện ra lần nữa, sẵn sàng chịu mù cả hai mắt, miễn được yêu Mẹ.
Đức Mẹ đã ưng nhận lời cha xin, đã hiện ra lần nữa, để cha xem toại nguyện. Nhưng Mẹ rất nhân từ không bao giờ biết làm hại ai, Mẹ không bắt cha phải mất mắt còn sáng lại chữa lành cả mắt đã mù trước nữa.
TIN SAO ĐƯỢC VẬY
Linh mục Louis de Granada, dòng Đaminh, đã thuật lại câu chuyện xẩy ra năm 1573 mà chính ngài đã mắt thấy, tai nghe:
Ở thành Lisboa, thủ đô nước Bồ đào Nha, có một bà sang trọng phú quý, có lòng kính mến Đức Mẹ cách riêng; bà siêng năng lần hạt và làm các việc lành dâng kính Đức Mẹ. Hơn nữa bà đã tận hiến toàn thân cho Đức Mẹ xin Mẹ lo liệu bênh vực, che chở và gìn giữ cách riêng. Một ngày kía, bà gặp trường hợp rất nguy hiểm, mang theo nhiều hậu quả may rủi tuỳ cách sử sự khôn khéo hay vụng về. Đứng trước tình thế khó khăn đó, bà vào nhà thờ cầu nguyện trước tượng Đức Mẹ, tỏ hết nỗi lòng lo lắng về vận mạng tương lai cho Mẹ biết và xin Mẹ giơ tay giúp đỡ, bênh vực…
Thật là cầu được ước thấy, vì Đức Mẹ đã hiện hình sống động và bảo cho bà biết Người sẽ đích thân giàn xếp công chuyện cách có lợi cho bà, vì xưa nay bà vẫn có lòng kính mến, cây trông và phó thác mọi sự trong tay Người. Hôm nay Người sẽ thực hiện sứ mạng của Người để cho bà cũng như mọi người nhận thấy Đức Mẹ không hề từ chối lời cầu xin của những ai hết lòng trông cậy vào Mẹ.

VIẾT THƯ GỞI ĐỨC MẸ

Thánh Stanisla Koska giữa tuổi thanh xuân đã tận hiến trót mình cho Đức Mẹ. Một hôm vào đầu tháng tám cha Canisio giảng cho các Tập sinh Dòng Tên đã khuyên họ ngày nào cũng coi như ngày cuối cùng của đời, sắp ra trước toà Chúa phán xét. Nghe giảng xong, Stanisla nói với các bạn lời cha giảng hôm nay chính là lời Chúa gọi mình sẽ chết trong tháng này. Quả thật bốn hôm sau, Stanisla đi với cha Emmanuel đến viếng đại đền thờ Thánh Mẫu, thánh nhân nói với cha về lễ Đức Mẹ Lên Trời sắp đến:
- Thưa cha, con tin chắn hôm đó, ở Thiên đàng, các thánh được hưởng kiến dong nhan Mẹ Thiên Chúa, là Nữ Vương Thiên Đàng, và nếu đúng hàng năm các thánh được mừng lễ Tôn Vương Maria ngày Đức Mẹ Mông Triệu như con vẫn tin tưởng thì con hy vọng đến lễ tới đây con sẽ được có ở trên đó.
Theo lễ trong Dòng Tên, Stanislas đã rút thăm được thánh Laurenso tử đạo làm bổn mạng mình trong tháng tám. Stanisla đã viết cho Đức Mẹ một lá thơ xin Mẹ ban cho mình được dự lễ Mẹ Mông Triệu ở trên trời. Ngày lễ thánh Laurenso, Stanisla đã rước lễ và cầu xin Thánh Tử Đạo đem thư mình gởi tới tay Mẹ Maria. Chiều hôm đó, Stanisla cảm sốt, tuy nhẹ, ngài cũng chắc mình sẽ được ơn từng mong ước bấy lâu và tin cái chết đã gần, nên khi phải đi nằm ngài tươi cười nói:
- Tôi sẽ không dậy khỏi gường này nữa.
Rồi quay về cha Aquaviva ngài thêm.
- Con tin chắc thánh Laurenso đã xin Đức Mẹ cho con được lên trời mừng lễ Mông Triệu của Mẹ.
Nhưng chẳng một ai để ý đến lời ngài.
Đến ngày áp lễ bệnh ngài vẫn chưa nặng hơn. Tuy niên Stanisla đã nói với một anh em túc trực: đêm nay mình sẽ chết. Người anh em đó bảo:
- Thôi anh, bệnh thế này mà không khỏi lại chết, thì thật là một phép lạ đấy!
Đến chiều, Stanisla bị sốt nặng tưởng chết ngay, từ đó người đổ mồ hôi lạnh và yếu đuối kiệt sức dần. Bề trên đến thăm, Stanisla xin cho mình được nằm dưới đất để chết như một hối nhân. Để làm vui lòng bệnh nhân, Bề trên cho trải một cái chăn trên đất. Ngài xưng tội, chịu của ăn đàng như một Thiên Thần sốt mến, và chịu phép xức Dầu. Mắt cắm chặt nhìn vào 1 ảnh Đức Mẹ cầm trên ngực, thỉnh thoảng lại ngước nhìn trời. Cha bề trên hỏi:
- Tràng hạt không lần được nữa thì con cuốn vào cổ tay làm gì?
- Trình cha để an ủi con vì đã được dâng hiến cho Đức Mẹ.
- Khi được chiêm ngưỡng thánh nhan Mẹ trên Thiên đàng và hôn kính tay Mẹ, chắc con được yên ủi biết bao.
Nghe lời đó mắt ngài sáng rực, tay giơ lên tỏ lòng ao ước, ngài đã thú với anh em quanh giường ngài, là Đức Mẹ đã ngự xuống rước ngài về trời; đúng ngày 15 tháng 8 năm 1568 lúc mặt trời vừa mọc ngài qua đời một cách thánh thiện.

LÁ THƯ KHÔNG ĐỊA CHỈ

Trong niên sử Dòng Thánh Phanxicô thật lại chuyện này:
Hai tu sĩ dòng lên đường đi kính viếng một đền thờ Đức Mẹ, đến giữa một khu rừng thì trời sập tối. Vừa bối rối vừa lo sợ, 2 thầy không biết sẽ ra sao, cứ bước liều trong đêm tối, thì thấy 1 ngôi nhà ở trước mặt. Hai thầy tiến tới và sờ soạng tìm cửa. Tìm được cửa rồi, bèn gõ cửa gọi. Có tiếng từ trong vọng ra:
- Ai đó?
- Chúng tôi là hai tu sĩ nghèo, vì đêm xuống giữa rừng sâu này. Xin đến trọ nhờ để khỏi thú dữ ăn thịt.
Cửa mở. Hai thầy thấy hai tiểu đồng y phục sang trọng ra đón tiếp, chào rất lịch sự. Hai thầy hỏi xem ai là chủ nhà thì được tiểu đồng cho biết là một mệnh phụ rất hảo tâm. Hai thầy tỏ ý muốn đến chào và cảm tạ lệnh bà. Hai tiểu đồng liền dẫn hai thầy đến gặp bà chủ. Họ lên thang gác, qua những căn phòng lộng lẫy, đầy ngọc bảo sáng ngời, toả mùi thơm linh diệu. Khi tới căn phòng bà chủ ở, hai thầy gặp một mệnh phụ diễm lệ niểm nở chào và hỏi các thầy đi đâu. Hai thầy trả lời là đi kính viếng một đền thờ Đức mẹ, thì bà tiếp:
- Thật là một dịp tiện, bao giờ các thầy lên đường, tôi muốn dính gửi 1 phong thư, phong thư này sẽ giúp các thầy rất nhiều.
Khi nghe bà nói, hai thầy thấy lòng bừng bừng lửa mến Chúa, tâm hồn tràn ngập vui sướng khôn tả. Rồi các thầy từ giã bà trở về phòng ngủ. Hôm sau hai thầy đến cám ơn bà và xin từ biệt. Bà trao cho hai thầy bức thư nói tối qua. Các thầy ra đi quãng đường khá xa mới nhận ra thư bà gửi không có địa chỉ người nhận, bèn trở lại tìm, nhưng vòng đi vòng lại mấy lần mà chẳng thấy lâu đài đâu cả. Sau cùng hai thầy bàn nhau mở thư xem nói gì và gửi cho ai. Đọc xong thư mới biết rõ người nói chuyện với mình tối hôm qua chính là Đức Mẹ, trong thư Mẹ thúc dục hai thầy cứ bền vững mến yêu Đức Mẹ và đoan hứa sẽ thưởng bội hậu những việc các thầy đã làm để mến yêu Đức Mẹ, nhất là sẽ giúp đỡ giờ lâm chung. Cuối thơ có chữ ký: Mẹ là Trinh Nữ Maria.

TẠI SAO CHÚA CHỌN CON

LM. Anphong Trần Đức Phương

VietCatholic News (24 Jun 2009 02:29)

(MỪNG ‘NĂM LINH MỤC’)

Nhân dịp kỷ niệm 150 năm Cha Thánh Gioan Baotixita Maria Vianney qua đời (1859-2009), vào ngày lễ Kính Thánh Tâm Chúa Giêsu (19/6/2009), Đức Giáo Hoàng Benedictô XVI đã long trọng tuyên bố khai mạc NĂM LINH MỤC. Năm Linh Mục sẽ kéo dài từ ngày 19/6/2009 đến ngày 19/6/2010, để mỗi người chúng ta có thể dành nhiều thời giờ hơn suy gẫm về sự cao trọng của Bí Tích Truyền Chức Thánh và Chức Linh Mục. Cũng là năm đặc biệt để chúng ta dâng nhiều hãm mình, hy sinh cầu nguyện xin ơn thánh hóa cho bao nhiêu linh mục đang âm thầm phục vụ Chúa và Dân Chúa cũng như toàn thể nhân loại ở khắp nơi trên thế giới. Đồng thời cũng là năm để các Linh mục cầu nguyện, suy gẫm và sống chức Linh Mục của mình trong cuộc sống bận rộn hàng ngày, trong nhiều chức vụ khác nhau mà Chúa đã trao ban. Cũng còn là năm để cổ động ơn gọi Linh Mục nơi giới trẻ.

Dù đã sống khá lâu trong cuộc đời Linh Mục, nhưng tôi vẫn luôn đặt câu hỏi “Tại Sao Chúa Chọn Con… dù con chỉ là một con người tầm thường, hèn yếu và nhiều khuyết điểm!” Đó cũng là câu hỏi có thể đặt ra với mỗi linh mục của Chúa: Tại sao Chúa đã gọi và chọn con? Cũng như tại sao Chúa đã chọn Phêrô, và các Tông Đồ, dù các Ngài cũng chỉ là những con người yếu đuối; như Phêrô đã chối Thày tới ba lần. Trong số 12 ông, lại có Giuđa bán Chúa! Tại sao Chúa chọn Phaolô, một kẻ điên cuồng chống Chúa và Giáo Hội Chúa lúc ban đầu (Công Vụ 8: 3). Tại sao Chúa đã chọn Augustinô, dù rất thông thái, nhưng lúc ban đầu là một người vô thần? Tại sao Chúa chọn Charles de Foucauld, một sĩ quan đầy tương lai trong quân đội Pháp đã ‘bỏ đạo’ và đang sống cuộc đời thác loạn? Mới đây lại chọn một đảng viên cộng sản Trung Quốc để trở nên một ‘Linh Mục chui’ với cái tên “Cha Bao”. Tại sao Chúa gọi và chọn lên chức Linh mục những người thật thông thái: những nhà bác học, khoa học, triết gia nổi danh như Gregor Mendel (1822-1844), Pierre Teihard de Chardin (1881-1955), George Lemaitre (1894-1966), Stanley L. Jaki (1924-2009), Michal Heller (1936) v.v… Trong khi cũng gọi và chọn Gioan Vianney, trí khôn rất bình thường.

Trong ‘Năm Linh Mục’, Đức Gíao Hoàng muốn chúng ta đặc biệt suy gẫm cuộc đời của cha Gioan Baotixita Maria Vianney (1786-1859) thường được gọi là Cha Sở xứ Ars (Cure d’Ars), là một Linh Mục, một Cha Xứ gương mẫu và là Bổn Mạng các Linh Mục, đặc biệt các Cha Xứ.

Cha Vianney sinh ngày 8/5/1786, trong một gia đình đạo hạnh, tại Dardilly (gần Lyon, Pháp) và lớn lên đúng vào thời kỳ Giáo Hội tại Pháp gặp những bách hại khủng khiếp do cuộc Cách Mạng Pháp (1789-1799). Cuộc Cách Mạng này khởi đầu vào lúc Vianney mới được 5 tuổi. Trong thời kỳ này, nhiều giáo sĩ và tu sĩ bị bắt đi tù đày hoặc giết chết, nhiều dòng tu, xứ đạo bị đóng cửa. Nhà thờ xứ đạo quê hương của Vianney cũng bị đóng cửa; nhưng cả gia đình vẫn kiên tâm giữ vững Đức Tin và sống đời sống đạo đức, bác ái. Khi lớn lên, Vianney có dịp gặp gỡ nhiều linh mục còn sống sót sau cuộc bách hại, và sống Đức Tin thật mạnh mẽ. Các ngài cùng chung tay xây dựng lại Giáo Hội Pháp từ những đổ nát sau cuộc Cách Mạng. Noi gương sáng của các linh mục này, Vianney cảm thấy muốn đi tu làm Linh Mục, và xin vào Chủng viện. Vì tuổi đã hơi lớn, và không được học hành nhiều, trí khôn lại hơi kém, nên Vianney đã gặp rất nhiều khó khăn trong thời gian tu học. Nhưng bù vào, Vianney có một Đức Tin mạnh mẽ và lòng đạo đức sâu xa. Cuối cùng nhờ ơn Chúa, Vianney cũng vượt qua được mọi trở ngại, khó khăn và chịu chức Linh Mục vào ngày 13/8/1815 tại Grenobe. Sau một thời gian lam phó xứ, Cha Vianney được bổ nhiệm về làm Cha sở xứ Ars (gần Lyon) từ năm 1918. Lúc đó, xứ Ars là một xứ đạo miền quê, nghèo nàn, và tinh thần đạo đức bị sút giảm vì những năm Cách Mạng Pháp. Lúc đầu, Cha Vianney cũng gặp rất nhiều khó khăn trong việc mục vụ cho giáo dân ở đây. Cha cố gắng dành nhiều thời giờ đi thăm viếng các gia đình, giúp đỡ các cô nhi, qủa phụ, các nguời nghèo khó trong xứ đạo. Cha cũng dành nhiều thời giờ dạy giáo lý cho trẻ em. Những thời giờ còn lại, Cha vào Nhà Thờ để cầu nguyện với Chúa Giêsu Thánh Thể. Cha cũng siêng năng cầu nguyện với Đức Mẹ Maria qua tràng Chuỗi Mân Côi mà Cha luôn mang theo trong người hoặc trên tay. Nhờ kiên trì hãm mình, cầu nguyện và sống khiêm nhường, Cha Vianney đã biến xứ đạo này trở nên một xứ đạo nhiệt thành, sốt sáng.

Cha Vianney đã sống gần suốt cuộc đời Linh Mục ở đây và lòng đạo đức, tinh thần hy sinh cũng như sự tận tụy phục vụ giáo dân, đã làm cho danh tiếng của Cha lan tràn đến các xứ đạo lân cận, rồi đến khắp nơi trên nước Pháp và các quốc gia khác. Nhiều người từ các nơi, kể cả nhiều vị giảng thuyết nổi tiếng tại Pháp lúc đó, như Cha Henry Lacordaire, cũng đến nghe Cha Vianney giảng. Những bài giảng của Cha tuy đơn sơ, dễ hiểu, nhưng rất đạo đức, phát xuất từ đời sống nội tâm sâu xa. Cha Vianney đã sống những lời Cha giảng cho dân chúng, nên đánh động rất nhiều tâm hồn. Nhiều người đã tìm lại được Đức Tin khi nghe Cha giảng, và đến bàn việc thiêng liêng cũng như xưng tội với Cha.

Vào khoảng 10 năm cuối đời của Cha Vianney, hàng năm có tới 20 ngàn người (trong đó có cả những Giám mục, Linh mục, Tu sĩ nam, nữ) đến nghe Cha giảng, xưng tội, bàn việc thiêng liêng. Mỗi ngày Cha phải ngồi Tòa Giải Tội ít nhất là 12 tiếng đồng hồ, có khi 16 tiếng. Chỉ vào đêm khuya, Cha mới trở vào nhà xứ và ăn mấy củ khoai luộc sẵn, sau đó nghỉ đêm ít giờ, để rồi lại thức dậy từ sáng sớm đọc sách nguyện, suy gẫm, dâng Thánh Lễ và bắt đầu một ngày mới đầy bận rộn. Có những lần Đức Giám Mục muốn thuyên chuyển Cha, nhưng giáo dân quyết tâm xin giữ Cha lại. Chính Cha Vianney cũng đã có nhiều lần muốn rời bỏ giáo xứ để sống đời chiêm niệm; nhưng theo ý Chúa, Cha đã tiếp tục phục vụ tại đây cho đến khi được Chúa gọi về để thưởng công trên Nước Chúa vào ngày 4/8/1859. Đức Giáo Hoàng Pio XI đã suy tôn Ngài lên bậc Hiển Thánh vào năm 1925. Ngài thật là một mẫu gương Linh mục tuyệt vời, đúng là Thánh Bổn Mạng của các Linh Mục, nhất là các Linh Mục phục vụ tại các giáo xứ.

Trong năm thánh hóa các Linh Mục này, chúng ta hãy dâng nhiều hy sinh, hãm mình cầu xin Chúa Giêsu Linh Mục Thượng Phẩm đời đời, ban ơn thánh hóa, gìn giữ và nâng đỡ các Linh Mục của Chúa đang hoạt động khắp nơi trên thế giới; đặc biệt các Linh Mục đang gặp nhiều khó khăn, thử thách, đang bị tù đày tại những nơi mà Giáo Hội đang bị bách hại cách này hay cách khác.

Có nhiều “Kinh Cầu cho các Linh Mục”, và nhiều nhà thờ thường đọc vào trước giờ Thánh Lễ để xin ơn thánh hóa cho các Linh Mục. Nhiều gia đình cũng đọc vào giờ Kinh Tối. Chúng tôi xin gửi đến qúy vị một kinh sau đây:

KINH CẦU CHO CÁC LINH MỤC

Lạy Chúa Giêsu, là LINH MỤC ĐỜI ĐỜI,
Chúa đã dùng tay các vị Giám mục mà thông ban bảy ơn Thánh Thần Chúa để thánh hóa các Linh mục.
Chúa là mẫu gương độc nhất và sáng tỏ cho hàng Linh mục noi theo.
Xin in sâu người mẫu vào tâm hồn các Linh mục
để các Linh mục được trở nên những vị Kitô-thứ-hai của Chúa.
Xin Chúa cho các Linh mục sống theo ánh sáng Đức Tin chỉ dẫn
và bất cứ trong cảnh ngộ nào hằng tin vào quyền năng vô cùng của Chúa,
biết sống nội tâm, siêng năng cầu nguyện,
lấy Mình Máu Thánh Chúa và Phúc Âm làm của ăn nuôi sống hằng ngày.

Xin cho các Linh mục thật lòng mến Chúa, và yêu thương mọi người,
hy sinh đời sống mình vì kẻ khác,
luôn luôn nêu gương mẫu khiêm nhường, khó nghèo, hiền hòa và trong sạch,
để mọi người nhìn thấy Chúa Giêsu trong các Linh mục.

Xin cho các Linh mục trìu mến và vâng phục Cha chung là Đức Giáo Hoàng,
thành tâm cộng tác với Đức Giám mục là đấng kế vị các Thánh Tông Đồ,
luôn luôn đoàn kết với các anh em Linh mục trong việc mở mang nước Chúa.

Xin cho các Linh mục là những chủ chăn nhiệt thành săn sóc đoàn chiên Chúa
tìm kiếm những chiên thất lạc chăm nom những chiên bệnh hoạn
chữa lành những chiên đau yếu nuôi dưỡng chiên trong đồng cỏ xanh tươi của Chúa.

Xin cho các Linh mục là cha chung đáng quý mến của mọi gia đình Cộng đoàn
hướng dẫn giáo dân trong tình phụ tử
lấy Phụng vụ và Lời Chúa làm của ăn nuôi dưỡng Cộng đoàn,
để mọi người trong Cộng đoàn hăng say cộng tác xây dựng nước Chúa.

Lạy MẸ MARIA,

là Mẹ hàng giáo sĩ xin cho hàng giáo sĩ hằng yêu mến Mẹ.
Xin Mẹ nâng đỡ Linh mục khi có ai yếu đuối ủi an khi sầu khổ khuyến khích khi thua buồn,
để các ngài luôn luôn phấn khởi làm tròn nghĩa vụ Linh mục.
Amen.

Con Cái Là Hồng Ân Của Thiên Chúa


Mỗi độ Noel về, người ta thường nhắc nhớ nhau Giêsu chính là quà tặng Thiên Chúa dành cho loài người, nhưng chẳng mấy ai nói với nhau rằng con cái là quà tặng vô giá từ Thiên Chúa, mỗi khi sinh nhật chúng. Người ta đều biết Chúa Giêsu là quà tặng vô giá của Thiên Chúa cho nhân loại, mấy ai biết tới món quà vô giá là người con Chúa gửi tới nơi mỗi gia đình. Bởi vậy khi mừng lễ Giáng Sinh họ hớn hở vui mừng, nhưng khi sinh con ra nhiều cha mẹ đã lo lắng, buồn sầu khôn nguôi. Lo vì rồi đây sẽ phải vất vả, phải hy sinh, phải mất mát nhiều thứ. Chẳng vậy, nhiều “món quà” đã bị vất bỏ, nhiều trẻ em đã bị giết đi vì sự có mặt của chúng ở trên đời này chỉ là phiền nhiễu, là gánh nặng, rắc rối cho cuộc đời và nhất là vì họ không cần chúng.

Tin Mừng tỏ lộ cho chúng ta một chiều kích mới, một thông điệp từ Thiên Chúa: con cái là hồng ân, là quà tặng vô giá của Thiên Chúa. “Này, con cái là hồng ân của Chúa, con mình sinh hạ là phần thưởng Chúa ban.” (Tv 127, 3). Thực vậy, ngay từ thủa ban đầu, qua câu truyện tổ phụ Abraham, Kinh Thánh đã cho chúng ta thấy giá trị vô song của con cái: Chúng là dấu chỉ của tình thương, phúc lành và sự trung tín của Thiên Chúa (St 15, 5). Ngược lại, tình trạng son sẻ hiếm muộn thường bị coi là sự ô nhục, là hình phạt (St 16, 2; 20, 18). Mặc dù quan niệm về hình phạt này ngày nay không còn nữa, nhưng xem ra việc không có con vẫn mãi là một nỗi buồn, một sự bất hạnh, tạo ra một khoảng trống cô đơn nơi các gia đình. Cha ông ta đã diễn tả tình trạng này thật tinh tế: Có chồng mà chẳng có con, khác gì hoa nở trên non một mình.

Quà tặng, tự bản thân nó bao hàm hai chiều kích: phúc lành và trách nhiệm. Sự hiện diện của Chúa Giêsu là người con trong thánh gia thất của Đức Maria và thánh Giuse đã mang lại vinh quang danh dự cho các ngài. Đó là một ân huệ lớn lao vô song từ Thiên Chúa. Nhưng điều này cũng bao hàm một trách nhiệm bảo bọc, cưu mang, săn sóc và dạy dỗ bé Giêsu. Phúc lành càng lớn, trách nhiệm cũng tương xứng theo.

TRÁCH NHIỆM

Khi đứa trẻ được sinh ra, điều đầu tiên cha mẹ làm là đưa em đến nhà thờ lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy, trước mặt cộng đoàn. Điều này nhắc chúng ta nhớ rằng, các em không thuộc về một gia đình thể lý nhỏ bé nào, không phải là tài sản của cha mẹ các em. Các em là những món quà Thiên Chúa gửi tới cho một gia đình rộng lớn hơn: gia đình giáo xứ, gia đình giáo phận và rộng hơn các em thuộc về Giáo Hội, thuộc về “gia đình của Thiên Chúa”. Tất cả chỉ có một Cha, là Đấng hằng yêu thương, săn sóc con cái mình, ngự trên trời. Cha mẹ thể lý của các em chỉ là “cha mẹ nuôi”, là “người quản lý” được Thiên Chúa trao những nén bạc, là những đứa con, để coi sóc, “làm lợi” cho Ngài. Để rồi đến thời đến buổi, Ngài sẽ hỏi các bậc làm cha mẹ về việc chu toàn bổn phận và thái độ đối với những “nén bạc” Ngài trao.

“Cha mẹ phải coi con cái mình như là con cái Thiên Chúa và tôn trọng chúng như những nhân vị”. Điều cha mẹ cần làm là tạo ra nơi gia đình một bầu khí thân thiện, yêu thương và đạo đức hầu giúp các em lớn lên và phát triển về mọi mặt thể lý, tinh thần và tâm linh. Đó là nơi các em có thể tìm lời giải đáp cho mọi vấn nạn của mình mà không sợ hãi. Hơn nữa, đó còn là nơi các em được hướng dẫn trong đức tin, để dần hiểu ra được món quà vô giá là sự sống mà Thiên Chúa đã tặng ban và ngày càng đến gần Thiên Chúa, là Người Cha đích thực của mọi người. Cụ thể, cố Giáo Hoàng Gioan Phaolo II đã đề ra ba mục tiêu phải chú ý đối với các bậc làm cha mẹ :

- Dạy con cái dần dần về mầu nhiệm cứu độ, và vai trò đức tin trong biến cố đó;

- Giúp chúng học biết thờ phượng Thiên Chúa là Cha, trong tinh thần và chân lý, đặc biệt qua phụng vụ;

- Rèn luyện chúng sống ngay thẳng, thánh thiện trong đời sống hằng ngày.

PHÚC LÀNH

Này, con cái là hồng ân của Chúa, con mình sinh hạ là phần thưởng Chúa ban.

Nghe câu này, có người sẽ phản ứng: Phúc đâu chẳng thấy, chỉ thấy tốn tiền, sức lực, thời gian; hy sinh vất vả là thế mà chỉ được toàn là những lo toan. Càng lớn càng khó bảo, chỉ gây toàn phiền phức; càng lớn, càng thêm lo. Họ phàn nàn chẳng sai.

Nhưng, Kinh Thánh nói rõ: Con cái là phần thưởng Chúa ban. Công Đồng Vaticano II cũng khẳng định: “Con cái là hồng ân cao quí nhất của hôn nhân, chúng sẽ góp phần lớn lao cho hạnh phúc của chính cha mẹ chúng” (MV 48). Thực vậy, con cái như những chồi non được Thiên Chúa trao cho các gia đình săn sóc và phần thưởng chính là hoa trái của những chồi non này. Một khi chúng trưởng thành, đơm bông kết trái, thì những hoa trái trĩu ngọt chúng mang lại sẽ lớn hơn công sức vun trồng, tưới tắm mà cha mẹ đã bỏ ra gấp bội lần.

Nói về việc này, cha Henry Nouwen gợi cho chúng ta một hình ảnh thật thú vị. Những đứa trẻ được ví như những vị khách quí Thiên Chúa gửi tới nơi mỗi gia đình. Ba vị khách lạ đã đến với ông Abraham tại cụm sồi Man-rê, sau khi tiếp nhận sự đón tiếp ân cần, sự săn sóc chu đáo của ông, đã tỏ lộ cho ông lời hứa chúc lành của Thiên Chúa. Những đứa trẻ cũng mang theo trên mình một lời hứa, một kho tàng mà chỉ có thể mở ra được qua giáo dục. Thật vậy, chỉ có qua việc giáo dục, dạy dỗ con trở thành những Kitô hữu trưởng thành thì kho tàng đó mới được mở ra, khi đó cha mẹ mới cảm nghiệm được niềm hạnh phúc lớn lao Thiên Chúa đã dành sẵn cho họ. Ngược lại, nếu không giáo dục con cho tốt thì kho tàng đó mãi chẳng mở ra. Các cụ từ kinh nghiệm sống của mình cũng cho chúng ta một đúc kết thật chí lý: sinh con chẳng dạy chẳng răn, thà rằng nuôi lợn lấy lòng mà ăn.

“Triều thiên của người già là đàn con cháu” (Cn 17, 3). Thực vậy, còn niềm vui nào lớn lao hơn niềm vui của người cha, người mẹ được sum vầy bên đàn con cháu hiếu thảo, đức hạnh. Chỉ cần nhìn vào ánh mắt rạng rỡ của những bà mẹ trong ngày con mình tốt nghiệp hay khi được con mình đưa những đồng tiền lương đầu tiên tự chúng kiếm được, vâng chỉ những ánh mắt đó thôi cũng đủ nói lên tất cả. Những giọt nước mặt của các bà mẹ trong ngày con mình được Thiên Chúa chọn làm linh mục của Người cũng đủ để nói thay cho muôn lời sáo rỗng.

KẾT LUẬN

Con cái là một quà tặng vô giá từ Thiên Chúa. Cũng như những quà tặng khác, con cái là hồng ân đồng thời cũng đòi hỏi một trách nhiệm từ các bậc cha mẹ. Điều cần thiết là cha mẹ biết đón nhận chúng với lòng biết ơn và khiêm nhường, lo lắng chăm sóc và dạy dỗ chúng trở thành những người con trưởng thành của Thiên Chúa. Trong khi lãnh nhận sự chăm sóc từ cha mẹ, con cái cũng sẽ góp phần thánh hóa và mang lại hạnh phúc cho cha mẹ. Và khi đến thời đến buổi, chúng sẽ tỏ lộ cho cha mẹ chúng những phần thưởng, lời hứa mà Thiên Chúa dành sẵn cho họ. Sau cùng, chính Thiên Chúa sẽ chúc lành và thưởng công xứng đáng cho những người quản lý trung tín và khôn ngoan đã chu toàn bổn phận mà Ngài trao phó.

30/6/09

KINH NGHIỆM SỰ CHẾT CỦA CHA JOSE MANIYANGAT

KINH NGHIỆM SỰ CHẾT CỦA CHA JOSE MANIYANGAT
(Sau khi Chúa cho sống lại năm 1985)

Tôi sinh ngày 16 tháng 7 năm 1949 tại Kerala, Ấn Độ. Cha mẹ của tôi là Joseph và Theresa Maniyangat. Tôi là người con lớn nhất trong 7 anh chị em: Jose, Mary, Theresa, Lissama, Zachariah, Valsa và Tom.

Vào năm 14 tuổi, tôi gia nhập tu viện St. Mary ở Thiruvalla. Bốn năm sau đó, tôi đổi sang tu viện St. Joseph ở Alwaye, Kerala để tiếp tục đời tu. Sau 7 năm triết học và thần học, tôi được thụ phong linh mục vào ngày 1 tháng 1 năm 1975. Sau đó, tôi làm công tác truyền giáo ở Giáo Phận Thiruvalla.
Vào năm 1978, trong thời gian tôi đang dạy ở tu viện St. Thomas ở Bathery, tôi là một thành viên hoạt động trong phong trào Canh Tân Đặc Sủng ở Kerala và bắt đầu tổ chức các cuộc tĩnh tâm, đại hội của phong trào Canh Tân Đặc Sủng ở Kerala.

Vào Chúa Nhật Lễ Kính Lòng Thương Xót ngày 14 tháng 4 năm 1985, khi trên đường đi dâng lễ cho một nhà thờ phía bắc ở Kerala, tôi đã bị tai nạn thật khủng khiếp. Tôi đang lái xe gắn máy bị một người say rượu lái chiếc xe jeep đụng vào đầu xe. Sau đó người ta chuyển tôi tới bệnh viện cách xa khoảng 35 dặm. Trên đường tới bệnh viện, linh hồn tôi đã lìa khỏi xác, và tôi đã cảm nghiệm được sự chết. Ngay lúc đó, tôi gặp Thiên Thần bản mệnh. Tôi được nhìn thấy thân xác của tôi và những người đưa tôi đến bệnh viện. Tôi nghe tiếng họ đang khóc và cầu nguyện cho tôi. Lúc đó Thiên Thần bản mệnh nói với tôi rằng: “Tôi sẽ đưa cha lên Thiên Đàng; Thiên Chúa muốn gặp và nói chuyện với cha.” Thiên Thần bản mệnh cũng nói với tôi trên đường đi sẽ cho tôi thấy Hỏa Ngục và Luyện Ngục.

Trước tiên, Thiên Thần dẫn tôi tới Hỏa Ngục. Thật là một cảnh rất khủng khiếp! Tôi đã nhìn thấy Satan và các quỷ dữ với độ nóng phừng phực khoảng 2000 độ F, giòi bọ bò lúc nhúc, người ta la hét và chửi bới, một số khác đang bị tra tấn bởi quỷ dữ. Thiên Thần bảo tôi những người này đã mắc tội trọng mà không ăn năn hối cải khi còn sống. Tôi đã hiểu ở đó có 7 mức độ đau đớn của hình phạt khác nhau tuỳ theo tội trọng mà họ đã phạm khi còn sống, linh hồn họ rất xấu xí, độc ác và kinh khiếp. Đó là một kinh nghiệm đáng sợ. Tôi có nhìn thấy một số người quen nhưng tôi không được phép nêu tên của họ. Những tội bị rơi vào Hỏa Ngục chính yếu là các tội: phá thai, dâm dục, trợ tử, ghen ghét, không tha thứ và phạm thánh. Thiên Thần bảo tôi rằng, nếu những người này thống hối trước giờ chết thì họ có thể tránh được Hỏa Ngục, chỉ phải đền bù ở Luyện Ngục. Tôi còn hiểu rằng một số người hối cải chịu đau khổ để đền tội ở đời này. Bằng cách đó, họ sẽ tránh được luyện ngục và được lên thẳng Thiên Đàng.

Tôi rất ngạc nhiên khi thấy có cả các linh mục và giám mục ở Hỏa Ngục. Trong số những người đó, một số người tôi không bao giờ dám nghĩ họ sẽ bị sa Hỏa Ngục. Những giám mục và linh mục này bị sa Hỏa Ngục vì đã giảng dạy sai lầm và làm gương xấu.

Sau khi thăm Hỏa Ngục, Thiên Thần đưa tôi đến Luyện Ngục. Ở đây cũng vậy, có 7 mức độ hình phạt và lửa cháy phừng phực khác nhau. Nhưng ở Luyện Ngục thì không khủng khiếp như ở Hỏa Ngục. Người ta không tranh giành và chửi bới. Nỗi đau khổ chính của họ là không được chiêm ngắm Thiên Chúa. Một số người trong Luyện Ngục họ mắc tội trọng nhưng họ đã ăn năn thống hối với Chúa trước khi chết. Mặc dù những linh hồn này đang chịu hình phạt, họ vẫn cảm nhận sự bình an và họ biết rằng ngày nào đó họ sẽ được hưởng thánh nhan Chúa. Tôi đã được phép nói chuyện với linh hồn ở Luyện Ngục. Họ xin tôi và mọi người cầu nguyện cho họ để họ sớm được về Thiên Đàng. Khi chúng ta cầu nguyện cho các linh hồn nơi Luyện Ngục, họ sẽ nhớ ơn và cầu nguyện lại cho chúng ta khi họ về Thiên Đàng.

Thật rất khó mà diễn tả Thiên Thần của tôi đẹp như thế nào. Thiên Thần sáng như ánh hào quang. Thiên Thần luôn đồng hành với tôi trong công việc mục vụ, đặc biệt là mục vụ chữa lành. Thiên Thần luôn đi với tôi bất cứ nơi nào và tôi rất biết ơn về sựbảo vệ của thiên thần cho đời sống của tôi.

Kế tiếp, Thiên Thần đưa tôi lên Thiên Đàng. Chúng tôi băng qua con đường hầm sáng láng. Tôi chưa bao giờ cảm nghiệm được sự bình an và hoan hỉ bằng lúc này. Ngay tức khắc, tôi nghe thấy điệu nhạc du dương những Thiên Thần đang ca hát và tôn thờ Chúa. Tôi nhìn thấy những vị Thánh đặc biệt là Đức Mẹ Maria, Thánh Giuse, nhiều giám mục và linh mục thánh thiện. Những vị này sáng láng như các vì sao. Khi tôi đến trước mặt Chúa, Chúa Giêsu bảo tôi “Cha muốn con trở lại trần gian, trong cuộc sống thứ hai của con, con sẽ trở nên dụng cụ hòa bình và chữa lành cho mọi người, con sẽ đến một nơi đất lạ và con sẽ nói tiếng nước ngoài, mọi sự sẽ được Cha chúc phúc.” Sau những lời đó, Đức Mẹ Maria bảo tôi “Con hãy làm những gì Chúa bảo con, Mẹ sẽ giúp con trong công việc mục vụ của con.”
Không một ngôn từ nào có thể diễn tả được sự đẹp đẽ của Thiên Đàng. Nơi đó chúng ta đầy tràn bình an và hạnh phúc vượt quá hằng triệu lần sự tưởng tượng của chúng ta. Thiên Chúa rất là tốt đẹp hơn bất cứ sự tưởng tượng nào. Mặt của Ngài thì sáng láng và rực rỡ hơn ngàn lần ánh sáng của mặt trời. Những bức tranh mà chúng ta nhìn thấy ở thế giới này chỉ là những bóng mờ so với sự lộng lẫy của Ngài. Bên cạnh Chúa Giêsu là Mẹ Maria, Mẹ rất đẹp và sáng láng. Không có một hình ảnh nào trên thế giới có thể so sánh với vẻ đẹp thật sự của Mẹ. Thiên Đàng là quê thật của mỗi người chúng ta. Chúng ta cố gắng trở về Thiên Đàng và hưởng hạnh phúc nhan thánh Chúa mãi mãi. Sau đó tôi cùng Thiên Thần trở lại trần gian.

Lúc xác tôi còn nằm ở bệnh viện, bác sĩ đã kiểm tra toàn bộ và xác nhận tôi đã chết. Nguyên nhân của sự tử vong là do mất quá nhiều máu. Gia đình tôi đã được thông báo khi họ còn ở xa. Nhân viện bệnh viện quyết định đưa xác tôi xuống nhà xác. Bởi vì bệnh viện không có máy lạnh, nên họ lo ngại xác sẽ có mùi hôi.

Ngay lúc họ chuyển xác tôi tới nhà xác, linh hồn tôi trở lại thân xác. Tôi cảm thấy rất đau đớn bởi vì những vết thương và nhiều xương bị gẫy. Tôi bắt đầu rên la, những người xung quanh tôi chạy tán loạn la hoảng lên vì sợ hãi. Một trong những người đó đã đi gọi bác sĩ và nói “Xác chết đang rên la.” Bác sĩ đến kiểm tra lại thân thể tôi và phát hiện tôi vẫn còn sống. Bác sĩ ấy nói rằng “Cha Jose vẫn còn sống, đây là phép lạ, hãy đem cha trở lại bệnh viện.”

Khi họ đưa tôi đến phòng để truyền máu, đồng thời họ mổ và sửa lại những xương đã bị gẫy. Họ sửa lại xương quai hàm, xương sườn, xương chậu, xương cổ tay và xương chân phải của tôi.
Sau hai tháng điều trị tại bệnh viện, bác sĩ về xương đã cho tôi biết là tôi không bao giờ có thể đi lại được nữa. Nhưng tôi đã nói với bác sĩ: “Thiên Chúa đã cho tôi sống lại, gửi tôi về trần gian thì cũng sẽ chữa lành tôi.” Sau một tháng cắt băng bột, tôi vẫn không thể đi lại được. Trong lúc chúng tôi đang cầu nguyện tại nhà, tôi cảm thấy rất đau đớn ở nơi xương chậu. Nhưng chỉ một thời gian ngắn, sự đau đớn đã hoàn toàn biến mất và tôi nghe thấy có tiếng nói với tôi: “Con đã được chữa lành, đứng dậy và đi.” Tôi cảm thấy an bình và được chữa lành hoàn toàn trong con người của tôi. Tôi đứng dậy và bước đi. Tôi ngợi khen và tạ ơn Chúa cho phép lạ này.

Tôi báo cho bác sĩ về cái tin mà tôi đã được chữa lành, ông ta rất ngạc nhiên. Ông ta nói với tôi rằng: “Thiên Chúa của ông là Chúa thật. Tôi phải theo Thiên Chúa của ông.” Bác sĩ này là người theo đạo Hindu, ông ta đã hỏi tôi về đạo thánh. Sau đó, ông ta học đạo và chính tôi là người đã rửa tội cho ông để gia nhập đạo Công Giáo.

Theo sứ điệp của Thiên Thần, tôi đã đến Hoa Kỳ vào ngày 10 tháng 11 năm 1986, với công tác là linh mục truyền giáo. Lúc đầu, tôi làm việc cho Giáo Phận Boise ở Idaho từ năm 1987 tới 1989, kế đến tôi làm tuyên úy cho một nhà tù trong Giáo Phận Orlando, Florida từ năm 1989 tới 1992.

Năm 1992, tôi thuyên chuyển đến Giáo Phận Thánh Augustinô và làm việc tại nhà thờ Thánh Máthêu ở thành phố Jacksonville trong hai năm. Sau đó tôi được chỉ định làm chính xứ của nhà thờ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời từ năm 1994 đến 1999. Vào năm 1997, tôi được chính thức công nhận là linh mục trong giáo phận. Từ tháng 6 năm 1999 đến nay, tôi là cha quản nhiệm nhà thờ Đức Mẹ của Lòng Thương Xót ở thành phố MacClenny, Florida. Đồng thời tôi cũng phục vụ cho trại tù Starke, trung tâm cải huấn Raiford và trong bệnh viện MacClenny. Hơn nữa, tôi cũng là cha linh hướng của Hội Lêgiô Marie của địa phận.

Trong mỗi ngày thứ bảy đầu tháng, giáo xứ tôi có giờ chầu Thánh Thể và Thánh Lễ chữa lành. Mọi người đến từ nhiều nơi trong tiểu bang Florida và các tiểu bang khác. Tôi đã được mời đến cho mục vụ chữa lành ở nhiều thành phố lớn trong nước như New York, Philadelphia, Washington DC, San Jose, Dallas, Chicago, Birmingham, Denver, Boise, Idaho Falls, Ontario, Miami, Ft. Lauderdale, Poolsville và nhiều nước trên thế giới như Ireland, Spain, Czech Republic, India, France, Portugal, Yugoslavia, Italy, Canada, Mexico, Cayman Island và Hawaiian Islands.

Xuyên qua công tác mục vụ chữa lành qua phép Thánh Thể, tôi đã thấy nhiều người được chữa lành về thể xác, linh hồn, tâm hồn cũng như cảm xúc. Nhiều bệnh khác nhau như ung thư, si đa, tim, mắt, xuyễn, đau lưng, lãng tai và nhiều bệnh khác đã được chữa lành hoàn toàn. Thêm vào đó, nhiều lần trong năm có những cuộc chữa lành đặc biệt về giòng tộc mà đã ảnh hưởng bởi tội lỗi của cha ông cũng đã được chữa lành hoàn toàn.

Vì thế chúng ta cần sự chữa lành về gia tộc. Các bác sĩ và nhiều thuốc men không thể giúp chúng ta chữa lành về các loại bệnh tật này.

Trong mục vụ chữa lành, đã có nhiều người được nghỉ ngơi trong ơn Chúa Thánh Thần trước Thánh Thể Chúa và nhiều người được đổi mới tâm linh cũng như chữa lành về thân xác.

Tường thuật của Linh Mục Jose Maniyangat
Chuyển dịch: Anna Liên Nguyễn Seattle ngày 7 tháng 11 năm 2007