Pages

30/6/09

KINH NGHIỆM SỰ CHẾT CỦA CHA JOSE MANIYANGAT

KINH NGHIỆM SỰ CHẾT CỦA CHA JOSE MANIYANGAT
(Sau khi Chúa cho sống lại năm 1985)

Tôi sinh ngày 16 tháng 7 năm 1949 tại Kerala, Ấn Độ. Cha mẹ của tôi là Joseph và Theresa Maniyangat. Tôi là người con lớn nhất trong 7 anh chị em: Jose, Mary, Theresa, Lissama, Zachariah, Valsa và Tom.

Vào năm 14 tuổi, tôi gia nhập tu viện St. Mary ở Thiruvalla. Bốn năm sau đó, tôi đổi sang tu viện St. Joseph ở Alwaye, Kerala để tiếp tục đời tu. Sau 7 năm triết học và thần học, tôi được thụ phong linh mục vào ngày 1 tháng 1 năm 1975. Sau đó, tôi làm công tác truyền giáo ở Giáo Phận Thiruvalla.
Vào năm 1978, trong thời gian tôi đang dạy ở tu viện St. Thomas ở Bathery, tôi là một thành viên hoạt động trong phong trào Canh Tân Đặc Sủng ở Kerala và bắt đầu tổ chức các cuộc tĩnh tâm, đại hội của phong trào Canh Tân Đặc Sủng ở Kerala.

Vào Chúa Nhật Lễ Kính Lòng Thương Xót ngày 14 tháng 4 năm 1985, khi trên đường đi dâng lễ cho một nhà thờ phía bắc ở Kerala, tôi đã bị tai nạn thật khủng khiếp. Tôi đang lái xe gắn máy bị một người say rượu lái chiếc xe jeep đụng vào đầu xe. Sau đó người ta chuyển tôi tới bệnh viện cách xa khoảng 35 dặm. Trên đường tới bệnh viện, linh hồn tôi đã lìa khỏi xác, và tôi đã cảm nghiệm được sự chết. Ngay lúc đó, tôi gặp Thiên Thần bản mệnh. Tôi được nhìn thấy thân xác của tôi và những người đưa tôi đến bệnh viện. Tôi nghe tiếng họ đang khóc và cầu nguyện cho tôi. Lúc đó Thiên Thần bản mệnh nói với tôi rằng: “Tôi sẽ đưa cha lên Thiên Đàng; Thiên Chúa muốn gặp và nói chuyện với cha.” Thiên Thần bản mệnh cũng nói với tôi trên đường đi sẽ cho tôi thấy Hỏa Ngục và Luyện Ngục.

Trước tiên, Thiên Thần dẫn tôi tới Hỏa Ngục. Thật là một cảnh rất khủng khiếp! Tôi đã nhìn thấy Satan và các quỷ dữ với độ nóng phừng phực khoảng 2000 độ F, giòi bọ bò lúc nhúc, người ta la hét và chửi bới, một số khác đang bị tra tấn bởi quỷ dữ. Thiên Thần bảo tôi những người này đã mắc tội trọng mà không ăn năn hối cải khi còn sống. Tôi đã hiểu ở đó có 7 mức độ đau đớn của hình phạt khác nhau tuỳ theo tội trọng mà họ đã phạm khi còn sống, linh hồn họ rất xấu xí, độc ác và kinh khiếp. Đó là một kinh nghiệm đáng sợ. Tôi có nhìn thấy một số người quen nhưng tôi không được phép nêu tên của họ. Những tội bị rơi vào Hỏa Ngục chính yếu là các tội: phá thai, dâm dục, trợ tử, ghen ghét, không tha thứ và phạm thánh. Thiên Thần bảo tôi rằng, nếu những người này thống hối trước giờ chết thì họ có thể tránh được Hỏa Ngục, chỉ phải đền bù ở Luyện Ngục. Tôi còn hiểu rằng một số người hối cải chịu đau khổ để đền tội ở đời này. Bằng cách đó, họ sẽ tránh được luyện ngục và được lên thẳng Thiên Đàng.

Tôi rất ngạc nhiên khi thấy có cả các linh mục và giám mục ở Hỏa Ngục. Trong số những người đó, một số người tôi không bao giờ dám nghĩ họ sẽ bị sa Hỏa Ngục. Những giám mục và linh mục này bị sa Hỏa Ngục vì đã giảng dạy sai lầm và làm gương xấu.

Sau khi thăm Hỏa Ngục, Thiên Thần đưa tôi đến Luyện Ngục. Ở đây cũng vậy, có 7 mức độ hình phạt và lửa cháy phừng phực khác nhau. Nhưng ở Luyện Ngục thì không khủng khiếp như ở Hỏa Ngục. Người ta không tranh giành và chửi bới. Nỗi đau khổ chính của họ là không được chiêm ngắm Thiên Chúa. Một số người trong Luyện Ngục họ mắc tội trọng nhưng họ đã ăn năn thống hối với Chúa trước khi chết. Mặc dù những linh hồn này đang chịu hình phạt, họ vẫn cảm nhận sự bình an và họ biết rằng ngày nào đó họ sẽ được hưởng thánh nhan Chúa. Tôi đã được phép nói chuyện với linh hồn ở Luyện Ngục. Họ xin tôi và mọi người cầu nguyện cho họ để họ sớm được về Thiên Đàng. Khi chúng ta cầu nguyện cho các linh hồn nơi Luyện Ngục, họ sẽ nhớ ơn và cầu nguyện lại cho chúng ta khi họ về Thiên Đàng.

Thật rất khó mà diễn tả Thiên Thần của tôi đẹp như thế nào. Thiên Thần sáng như ánh hào quang. Thiên Thần luôn đồng hành với tôi trong công việc mục vụ, đặc biệt là mục vụ chữa lành. Thiên Thần luôn đi với tôi bất cứ nơi nào và tôi rất biết ơn về sựbảo vệ của thiên thần cho đời sống của tôi.

Kế tiếp, Thiên Thần đưa tôi lên Thiên Đàng. Chúng tôi băng qua con đường hầm sáng láng. Tôi chưa bao giờ cảm nghiệm được sự bình an và hoan hỉ bằng lúc này. Ngay tức khắc, tôi nghe thấy điệu nhạc du dương những Thiên Thần đang ca hát và tôn thờ Chúa. Tôi nhìn thấy những vị Thánh đặc biệt là Đức Mẹ Maria, Thánh Giuse, nhiều giám mục và linh mục thánh thiện. Những vị này sáng láng như các vì sao. Khi tôi đến trước mặt Chúa, Chúa Giêsu bảo tôi “Cha muốn con trở lại trần gian, trong cuộc sống thứ hai của con, con sẽ trở nên dụng cụ hòa bình và chữa lành cho mọi người, con sẽ đến một nơi đất lạ và con sẽ nói tiếng nước ngoài, mọi sự sẽ được Cha chúc phúc.” Sau những lời đó, Đức Mẹ Maria bảo tôi “Con hãy làm những gì Chúa bảo con, Mẹ sẽ giúp con trong công việc mục vụ của con.”
Không một ngôn từ nào có thể diễn tả được sự đẹp đẽ của Thiên Đàng. Nơi đó chúng ta đầy tràn bình an và hạnh phúc vượt quá hằng triệu lần sự tưởng tượng của chúng ta. Thiên Chúa rất là tốt đẹp hơn bất cứ sự tưởng tượng nào. Mặt của Ngài thì sáng láng và rực rỡ hơn ngàn lần ánh sáng của mặt trời. Những bức tranh mà chúng ta nhìn thấy ở thế giới này chỉ là những bóng mờ so với sự lộng lẫy của Ngài. Bên cạnh Chúa Giêsu là Mẹ Maria, Mẹ rất đẹp và sáng láng. Không có một hình ảnh nào trên thế giới có thể so sánh với vẻ đẹp thật sự của Mẹ. Thiên Đàng là quê thật của mỗi người chúng ta. Chúng ta cố gắng trở về Thiên Đàng và hưởng hạnh phúc nhan thánh Chúa mãi mãi. Sau đó tôi cùng Thiên Thần trở lại trần gian.

Lúc xác tôi còn nằm ở bệnh viện, bác sĩ đã kiểm tra toàn bộ và xác nhận tôi đã chết. Nguyên nhân của sự tử vong là do mất quá nhiều máu. Gia đình tôi đã được thông báo khi họ còn ở xa. Nhân viện bệnh viện quyết định đưa xác tôi xuống nhà xác. Bởi vì bệnh viện không có máy lạnh, nên họ lo ngại xác sẽ có mùi hôi.

Ngay lúc họ chuyển xác tôi tới nhà xác, linh hồn tôi trở lại thân xác. Tôi cảm thấy rất đau đớn bởi vì những vết thương và nhiều xương bị gẫy. Tôi bắt đầu rên la, những người xung quanh tôi chạy tán loạn la hoảng lên vì sợ hãi. Một trong những người đó đã đi gọi bác sĩ và nói “Xác chết đang rên la.” Bác sĩ đến kiểm tra lại thân thể tôi và phát hiện tôi vẫn còn sống. Bác sĩ ấy nói rằng “Cha Jose vẫn còn sống, đây là phép lạ, hãy đem cha trở lại bệnh viện.”

Khi họ đưa tôi đến phòng để truyền máu, đồng thời họ mổ và sửa lại những xương đã bị gẫy. Họ sửa lại xương quai hàm, xương sườn, xương chậu, xương cổ tay và xương chân phải của tôi.
Sau hai tháng điều trị tại bệnh viện, bác sĩ về xương đã cho tôi biết là tôi không bao giờ có thể đi lại được nữa. Nhưng tôi đã nói với bác sĩ: “Thiên Chúa đã cho tôi sống lại, gửi tôi về trần gian thì cũng sẽ chữa lành tôi.” Sau một tháng cắt băng bột, tôi vẫn không thể đi lại được. Trong lúc chúng tôi đang cầu nguyện tại nhà, tôi cảm thấy rất đau đớn ở nơi xương chậu. Nhưng chỉ một thời gian ngắn, sự đau đớn đã hoàn toàn biến mất và tôi nghe thấy có tiếng nói với tôi: “Con đã được chữa lành, đứng dậy và đi.” Tôi cảm thấy an bình và được chữa lành hoàn toàn trong con người của tôi. Tôi đứng dậy và bước đi. Tôi ngợi khen và tạ ơn Chúa cho phép lạ này.

Tôi báo cho bác sĩ về cái tin mà tôi đã được chữa lành, ông ta rất ngạc nhiên. Ông ta nói với tôi rằng: “Thiên Chúa của ông là Chúa thật. Tôi phải theo Thiên Chúa của ông.” Bác sĩ này là người theo đạo Hindu, ông ta đã hỏi tôi về đạo thánh. Sau đó, ông ta học đạo và chính tôi là người đã rửa tội cho ông để gia nhập đạo Công Giáo.

Theo sứ điệp của Thiên Thần, tôi đã đến Hoa Kỳ vào ngày 10 tháng 11 năm 1986, với công tác là linh mục truyền giáo. Lúc đầu, tôi làm việc cho Giáo Phận Boise ở Idaho từ năm 1987 tới 1989, kế đến tôi làm tuyên úy cho một nhà tù trong Giáo Phận Orlando, Florida từ năm 1989 tới 1992.

Năm 1992, tôi thuyên chuyển đến Giáo Phận Thánh Augustinô và làm việc tại nhà thờ Thánh Máthêu ở thành phố Jacksonville trong hai năm. Sau đó tôi được chỉ định làm chính xứ của nhà thờ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời từ năm 1994 đến 1999. Vào năm 1997, tôi được chính thức công nhận là linh mục trong giáo phận. Từ tháng 6 năm 1999 đến nay, tôi là cha quản nhiệm nhà thờ Đức Mẹ của Lòng Thương Xót ở thành phố MacClenny, Florida. Đồng thời tôi cũng phục vụ cho trại tù Starke, trung tâm cải huấn Raiford và trong bệnh viện MacClenny. Hơn nữa, tôi cũng là cha linh hướng của Hội Lêgiô Marie của địa phận.

Trong mỗi ngày thứ bảy đầu tháng, giáo xứ tôi có giờ chầu Thánh Thể và Thánh Lễ chữa lành. Mọi người đến từ nhiều nơi trong tiểu bang Florida và các tiểu bang khác. Tôi đã được mời đến cho mục vụ chữa lành ở nhiều thành phố lớn trong nước như New York, Philadelphia, Washington DC, San Jose, Dallas, Chicago, Birmingham, Denver, Boise, Idaho Falls, Ontario, Miami, Ft. Lauderdale, Poolsville và nhiều nước trên thế giới như Ireland, Spain, Czech Republic, India, France, Portugal, Yugoslavia, Italy, Canada, Mexico, Cayman Island và Hawaiian Islands.

Xuyên qua công tác mục vụ chữa lành qua phép Thánh Thể, tôi đã thấy nhiều người được chữa lành về thể xác, linh hồn, tâm hồn cũng như cảm xúc. Nhiều bệnh khác nhau như ung thư, si đa, tim, mắt, xuyễn, đau lưng, lãng tai và nhiều bệnh khác đã được chữa lành hoàn toàn. Thêm vào đó, nhiều lần trong năm có những cuộc chữa lành đặc biệt về giòng tộc mà đã ảnh hưởng bởi tội lỗi của cha ông cũng đã được chữa lành hoàn toàn.

Vì thế chúng ta cần sự chữa lành về gia tộc. Các bác sĩ và nhiều thuốc men không thể giúp chúng ta chữa lành về các loại bệnh tật này.

Trong mục vụ chữa lành, đã có nhiều người được nghỉ ngơi trong ơn Chúa Thánh Thần trước Thánh Thể Chúa và nhiều người được đổi mới tâm linh cũng như chữa lành về thân xác.

Tường thuật của Linh Mục Jose Maniyangat
Chuyển dịch: Anna Liên Nguyễn Seattle ngày 7 tháng 11 năm 2007

26/6/09

Hồng Ân Thiên Chúa (1)

24/6/09

ĐỌC KINH TỐI CHUNG TRONG GIA ĐÌNH


Soeur Jean Berchmans Minh Nguyệt


Chúng tôi là Cha Mẹ trẻ tuổi của một gia đình Công Giáo. Ngay từ khi lấy nhau, cả hai chúng tôi đều thâm tín rằng, trong vấn đề giáo dục con cái, việc thông truyền Đức Tin là vấn đề quan trọng đầu tiên. Tuy nhiên chúng tôi không đề ra một nguyên tắc hay một quy luật nào phải theo. Chúng tôi muốn tránh một lối giáo dục khắt khe cứng nhắc mà chúng tôi từng có kinh nghiệm lúc tuổi còn thơ.

Với thời gian, lần lượt 4 đứa con chào đời, chúng tôi bắt đầu khám phá ra việc đọc kinh chung trong gia đình là một phương thức tuyệt hảo để thức tỉnh và xây dựng Đức Tin. Một biến cố quan trọng xảy đến cho gia đình chúng tôi. Đó là ngày đứa con trai đầu lòng lên 8 tuổi chuẩn bị rước lễ lần đầu. Một dịp tốt thúc đẩy chúng tôi quyết định đọc kinh tối chung trước khi đi ngủ. Từ đó chúng tôi thấy rằng, buổi đọc kinh tối chung trong gia đình đã trở thành những giây phút hạnh phúc. Chúng tôi đặt trọn gia đình dưới cái nhìn yêu thương của Thiên Chúa.

Tuy nhiên chúng tôi không ép buộc con cái. Đứa nào không muốn thì thôi. Nhưng tất cả đều chấp thuận tham dự. Chúng tôi đọc kinh chung trong phòng ngủ của hai vợ chồng tôi. Chúng tôi dọn một chiếc bàn nhỏ, trên đó đặt một bức ảnh Đức Mẹ bồng Chúa Hài Đồng, một bình hoa và bốn cây nến trắng. Bốn đứa con theo lượt thắp và thổi tắt bốn cây nến này. Tất cả vợ chồng và 4 đứa con ngồi trên giường. Chúng tôi bắt đầu bằng dấu Thánh Giá, rồi mỗi đứa con nói: “Con chào Chúa GIÊSU. Con xin dâng cho Chúa lòng con. Con cám ơn Chúa vì một ngày tốt đẹp đã trải qua”.

Mỗi người sau đó có thể kể ra một việc cụ thể, hoặc một niềm vui nào đó, để cám ơn Chúa. Chẳng hạn như học hành chăm chỉ nơi trường học, ăn bữa trưa ngon, ăn bánh ngọt nơi nhà ông bà v.v. Đứa con trai cả 8 tuổi của chúng tôi cầu nguyện như thế này: “Xin Chúa gìn giữ và chúc lành cho cả gia đình chúng con: cho Ba, cho Má, cho con là Antoine, cho Marie-Amélie, cho Martin, cho Clotilde, và cho tất cả những người chúng con thương nhiều nhiều, cũng như cho tất cả những ai chúng con thương ít ít. Xin Chúa giúp con sống ngoan ngoãn, không bị đau ốm và biết chia sẻ với người khác”. Rồi chúng tôi cùng đọc hoặc cùng hát một kinh LẠY CHA, kinh KÍNH MỪNG. Và chúng tôi kết thúc buổi đọc kinh bằng dấu Thánh Giá.

Buổi cầu nguyện đọc kinh tối chung với các con trong gia đình đã khơi dậy trong tôi niềm khao khát cầu nguyện. Trước đó tôi đã từng tham gia nhiều hoạt động tông đồ trong giáo xứ, nhưng không chú ý nhiều đến việc cầu nguyện. Nhưng kể từ khi tôi nghiêm chỉnh chú ý đến đời sống đạo đức của các con, tôi cũng bắt đầu ý thức sâu xa rằng, tôi cùng tiến bước với các con và cùng khám phá ra con đường thiêng liêng phải theo. Tôi cũng ý thức sâu xa rằng, cầu nguyện không phải chỉ là dành ra một thời gian cho Chúa, nhưng còn phải cố gắng sống Phúc Âm nhiều hơn. Ngoài ra mỗi giây phút trong ngày, cũng còn phải hướng lòng về với Chúa, nghĩ đến tình thương và lòng trìu mến Ngài dành cho mỗi người.

Các con tôi đã giúp tôi tìm gặp lại cái gì là thiết yếu nhất. Chúng cũng dạy tôi biết đặt trọn Đức Tin tưởng nơi Chúa, dù bất cứ điều gì xảy ra; biết yêu thương người khác và biết cám ơn Chúa về tất cả những niềm vui mà Chúa ban cho chúng ta. Tôi nhận thấy rằng, trong một xã hội như xã hội Âu Châu, thường con cái không thiếu thốn gì. Do đó, điều quan trọng là phải dạy cho chúng biết cám ơn Chúa và ghi ơn Cha Mẹ về tất cả những gì chúng nhận lãnh.

Tuy nhiên, giáo dục Đức Tin, khơi dậy Đức Tin nơi con cái không phải là chuyện dễ làm và đôi khi, không hoàn toàn tùy thuộc nơi khả năng cũng như thiện chí của các bậc Cha Mẹ. Theo thiển ý tôi, chúng ta phải luôn khẩn cầu ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần. Tôi luôn ghi nhớ rằng, tôi không truyền đạt Đức Tin của tôi cho con cái, nhưng tôi cố gắng giúp chúng khám phá ra Thiên Chúa và yêu mến Ngài.

Niềm mơ ước sâu xa nhất của tôi là làm thế nào để việc cầu nguyện, đọc kinh tối chung trong gia đình trước khi đi ngủ, trở thành giây phút hạnh phúc nhất trong ngày. Đó là thời gian trọn gia đình cùng chia sẻ một niềm hạnh phúc thiêng liêng, niềm hạnh phúc đến từ chính Thiên Chúa. (“PRIER”, 1+2/1984, trang 23-14).


HÌNH KHỔ CÁC ĐẲNG LINH HỒN

Soeur Jean Berchmans Minh Nguyệt


Sử liệu các cha dòng Capucino ghi lại câu chuyện liên quan đến những cực hình các đẳng Linh Hồn phải chịu trong Lửa Luyện Ngục.

Cha Hippolyte de Scalvo là người tôi tớ tín trung của Chúa. Cha đặc biệt có lòng thương mến các đẳng Linh Hồn. Cha luôn luôn cầu nguyện cho các vị được mau mau giải thoát khỏi chốn Luyện Hình. Cầu nguyện chưa đủ, cha Hippolyte còn ăn chay hãm mình đền bù thay cho các đẳng và thường thuyết giảng về Luyện Ngục. Cha nhắc các tín hữu nhớ cầu nguyện, dâng các hy sinh và việc lành phúc đức để cầu cho các Linh Hồn được sớm về hưởng tôn nhan Chúa. Sáng nào cũng thế, cha Hippolyte thức dậy thật sớm để nguyện kinh cầu cho những người quá cố. Chúa Nhân Lành đã dùng gương vị tôi tớ Ngài để giúp các tín hữu hiểu phần nào những hình phạt các đẳng Linh Hồn phải chịu trong Lửa Luyện Hình.

Năm ấy cha Hippolyte được Bề Trên gởi đến Flandres, một thành phố nằm ở biên giới hai nước Pháp và Bỉ, để mở một tu viện các cha dòng Capucino. Trong số các tu sĩ cùng đi với cha Hippolyte có một thầy dòng hết sức đạo đức. Nhưng vừa đến nơi, vị tu sĩ này ngã bệnh nặng và đột ngột từ trần.

Sáng hôm sau đó, cha Hippolyte quì cầu nguyện trong nhà thờ, sau giờ Kinh Sáng. Bỗng chốc cha thấy xuất hiện trước mặt mình vị tu sĩ quá cố, dưới hình một bóng ma phủ đầy lửa. Người quá cố thú tội cùng Cha Bề Trên với lời rên rỉ não nề về một lỗi nhẹ mà thầy đã quên xưng khi còn sống. Thú tội xong, thầy thưa: "Xin cha cho con việc đền tội tùy ý cha và xin cha ban phép lành cho con hầu con được giải thoát khỏi khuyết điểm khiến con phải đau khổ vô ngần trong Lửa Luyện Ngục". Cảm kích trước tình trạng thảm sầu của vị tu sĩ thuộc quyền quá cố, cha Hippolyte vội vàng nói ngay:
- "Nhân danh quyền được phép, tôi xin tha tội cho thầy và chúc lành cho thầy. Còn về việc đền tội, vì thầy bảo là tôi có quyền ra việc đền tội, thì xin thầy hãy ở trong Lửa Luyện Ngục cho đến giờ Kinh Thứ Nhất, tức vào khoảng 8 giờ sáng nay".

Cha Hippolyte nghĩ rằng mình đã khoan hồng khi ra việc đền tội cho tu sĩ quá cố chỉ ở lại nơi Luyện Hình vài giờ! Nào ngờ, vừa nghe xong án lệnh, thầy dòng đạo đức như rơi vào trạng huống tuyệt vọng. Thầy vừa chạy vòng vòng trong nhà thờ vừa kêu la thảm thiết:
- "Ôi tấm lòng không đại lượng! Ôi người cha không biết cảm thương một Linh Hồn sầu não! Sao cha lại trừng phạt cách khủng khiếp một lỗi nhẹ mà nếu con còn sống, hẳn cha chỉ ra một việc đền tội cỏn con. Cha quả thật không biết tí gì về những kinh hoàng các Linh Hồn phải chịu trong Lửa Luyện Ngục!".

Nghe lời trách cứ nặng nề của vị tu sĩ quá cố, cha Hippolyte như "dựng tóc gáy" và cảm thấy vô cùng ân hận. Cha tìm cách "vớt vát" cái vô ý thức của mình. May mắn thay, cha nghĩ ra được một diệu kế. Cha vội vàng đánh chuông, gọi các tu sĩ trong cộng đoàn vào nhà thờ nguyện Kinh Giờ Một. Khi các tu sĩ có mặt đầy đủ, cha Hippolyte kể lại câu chuyện vừa xảy ra và cùng với cộng đoàn bắt đầu đọc ngay Kinh Giờ Một, hầu cho thầy dòng quá cố được sớm giải thoát khỏi lửa luyện hình.

Từ ngày đó cho đến khi qua đời, trong vòng 20 năm trời, Cha Hippolyte de Scalvo không bao giờ quên câu chuyện đã xảy ra. Trong các bài giảng, cha thường lập lại câu nói của thánh Anselmo (1033-1109): "Sau khi chết, hình phạt nhẹ nhất đón chờ ta trong Lửa Luyện Hình trở thành lớn lao hơn tất cả những gì trí khôn ta có thể tưởng tượng được khi còn sống trên trần gian này".

(Jacques Lefèvre, "Les Âmes du Purgatoire dans la vie des Saints", Editions Résiac, 1995, trang 24-26).


CÁC LINH HỒN ĐỀN TỘI NƠI LỬA LUYỆN HÌNH


Bà Maria Agatha Simma sinh ngày 5-2-1915 tại Sonntag, nước Áo, trong một gia đình nghèo thật nghèo. Bà có lòng yêu thương cách riêng các Linh Hồn nơi Lửa Luyện Ngục. Vì thế, bà được Thiên Chúa chọn làm vị tông đồ giúp đỡ các Linh Hồn. Chúa cho phép các Linh Hồn nơi Luyện Hình hiện về với bà để xin bà cầu nguyện hoặc làm việc đền bù phạt tạ thay cho các ngài. Bà cũng được đặc ân nhờ dịp này, hỏi các Linh Hồn về số phận của một vài Linh Hồn khác: còn bị giam nơi Lửa Luyện Hình hay đã về Thiên Quốc rồi. Bà Maria Agata Simma kể:
Chỉ vào những ngày thứ bảy đầu tháng hoặc vào những ngày Lễ kính Đức Mẹ, tôi mới có thể hỏi xem một Linh Hồn còn đền tội nơi Lửa Luyện Hình hay không. Khi một Linh Hồn hiện ra và sau khi đã trình bày những gì Linh Hồn cần xin để được giải thoát khỏi Lửa Luyện Hình, mà Linh Hồn vẫn còn đứng đó, thì tôi hiểu rằng, tôi có thể đặt một vài câu hỏi. Dĩ nhiên tôi không thể hỏi thẳng về số phận của chính đương sự, bởi vì, điều dễ hiểu là Linh Hồn này chỉ được ra khỏi Luyện Ngục sau khi người ta đã thi hành điều Linh Hồn xin .. Thường thì một Linh Hồn chỉ có thể cho biết về số phận của một Linh Hồn khác. Và Linh Hồn khác đó cũng có thể được phép hiện về để xin người ta làm việc lành hầu giải thoát mình khỏi Lửa Luyện Tội.

Có khi phải đợi 2 hoặc 3 năm, hoặc ít hơn, mới nhận được câu trả lời. Tùy theo lòng Nhân Lành của Thiên Chúa ban phép. Thường thì các Linh Hồn nơi Luyện Ngục không thể cho biết Linh Hồn nào bị rơi xuống hỏa ngục. Tuy nhiên, không vì thế mà kết luận rằng: không có hỏa ngục! Trái lại, chắc chắn có hỏa ngục và có rất nhiều người bị rơi vào đó! Nếu có ai hỏi tôi rằng: phương thế nào hữu hiệu nhất, giúp khỏi bị rơi vào hỏa ngục, tôi xin thưa:
- "Hãy sống khiêm nhường. Kẻ nào có lòng khiêm nhường không bị rơi vào hỏa ngục; còn kẻ nào kiêu ngạo thì kẻ đó có nguy cơ bị trầm luân đời đời kiếp kiếp trong lửa hỏa ngục!".
Có người hỏi tôi: "Trong Luyện Ngục có các trẻ em bị giam cầm không?", tôi xin thưa: "Có, đôi khi có cả các trẻ em chưa cắp sách đến trường nữa. Vừa khi một đứa trẻ biết điều gì không tốt mà vẫn làm thì đứa trẻ đó phạm một lỗi. Dĩ nhiên đối với trẻ em thời gian trong Luyện Ngục không kéo dài lâu, cũng không khủng khiếp lắm, bởi vì đứa trẻ chưa có trí phán đoán hoàn toàn. Thế nhưng đừng nghĩ rằng, một đứa trẻ chưa hiểu gì! Không hẳn thế. Một đứa trẻ hiểu hơn là chúng ta tưởng nghĩ! Trẻ em thường có một lương tâm bén nhạy hơn người lớn!

Một ngày, một người đàn ông đến xin tôi hỏi thăm về số phận của người vợ quá cố. Câu trả lời cho biết là bà vẫn còn bị giam trong Lửa Luyện Hình. Điều đáng nói: bà này là thành viên của nhiều Hội Đoàn, trong ấy, người ta có thể nhận lãnh ơn toàn xá trong giờ lâm tử. Do đó, người ta nghĩ bà đã được lên Thiên Đàng lâu lắm rồi!

Tôi xin một Linh Hồn nơi Lửa Luyện Hình giải thích lý do. Linh Hồn đó trả lời: "Để được nhận lãnh hoàn toàn một ơn toàn xá cho chính mình, người đó không được dính bén bất cứ sự gì nơi trần gian này. Đây là một đòi hỏi triệt để. Lấy ví dụ: một người mẹ trẻ có năm đứa con dại đang quây quần bên giường chết. Vậy mà, người mẹ trẻ sắp chết đó phải thưa cùng Chúa:
- "Con chỉ muốn điều Chúa muốn. Sống hay chết tùy ý Chúa!".
Thật là đòi hỏi khe khắt. Đúng vậy. Vì thế, cần phải luôn sống trong sự từ bỏ hoàn toàn và liên miên, mới có thể đạt đến tâm tình không dính bén bất cứ điều gì, vào giờ Chúa gọi từ bỏ tất cả để về với Ngài nơi Thiên Quốc!

Một Linh Hồn kể cho tôi nghe như sau. Tôi chết ngay tại chỗ trong tai nạn xe môtô, trên một đường phố ở thủ đô Vienne của nước Áo. Tôi bị tử nạn vì không tôn trọng luật đi đường. Đó là số phận của tôi. Tôi hỏi Linh Hồn:
- "Lúc đó, anh đã sẵn sàng để ra đi về thế giới bên kia chưa?". Linh Hồn thú nhận:
- "Tôi chưa sẵn sàng, nhưng Thiên Chúa Nhân Từ luôn ban cho một người - không bao giờ chủ ý phạm tội, hoặc không vì kiêu căng mà phạm tội chống lại Thiên Chúa - một thời gian ngắn hai hay ba phút để ăn năn tội cách trọn. Chỉ người nào khi ấy vẫn còn từ chối lời mời gọi của Thiên Chúa, mới bị kết án trầm luân đời đời trong Hỏa Ngục".
Linh Hồn này còn nói thêm một điều đáng suy nghĩ. Trong nhiều trường hợp, người ta nói:
- "Đã đến giờ Chúa định cho người ấy phải chết". Thật ra không luôn luôn đúng như vậy. Chỉ đúng trong trường hợp một người chết không do ý muốn hoặc lỗi của mình. Còn trong trường hợp của tôi, theo chương trình của Chúa, đáng lý tôi còn sống thêm được 30 năm nữa! Vì thế, chúng ta không có quyền đánh liều, đưa mạng sống chúng ta vào vòng nguy hiểm, trừ khi có lý do chính đáng! ..

.....
Hồi ấy là năm 1954, vào khoảng 14 giờ 30 phút chiều. Trên đường đi đến làng Marul, tôi gặp một bà lão. Tôi thầm nghĩ: "Hẳn cụ này phải 100 tuổi!", bởi lẽ tôi thấy bà cụ già quá già! Tôi liền thân mật cất tiếng chào cụ. Bà lão nói:
- "Sao lại chào tôi? Bởi vì, chả ai còn thèm chào tôi nữa!".
Tôi an ủi:
- "Cụ đáng được chào như bất cứ người nào khác". Thế là bà cụ bắt đầu than thở:
- "Không một ai còn tỏ dấu gì thân thiện đối với tôi. Chả ai thèm cho tôi cái gì để ăn và tôi phải nằm ngủ bên lề đường".
Nghe bà lão than van như vậy, tôi tự nhủ: - "Không thể nào xảy ra như thế được! Hẳn là bà cụ đã mất trí, bị điên điên khùng khùng rồi!".
Nghĩ thế, nên tôi tìm cách chứng minh cho bà cụ thấy là không thể nào xảy ra như vậy được. Nhưng bà cụ cương quyết nói:
- "Nhưng thực sự là như thế!".
Tôi bèn nghĩ, có lẽ bà cụ làm cho người ta nhàm chán, nên không ai muốn giữ bà lâu, thêm vào đó, tuổi bà lại cao. Tôi liền mời bà về nhà để ăn và ngủ tại nhà tôi. Bà cụ lại nói:
- "Nhưng tôi lại không có tiền để trả".
Tôi trả lời:
- "Không sao hết. Điều quan trọng là cụ phải chấp nhận tất cả những gì cháu dâng cho cụ. Nhà cháu không có nhiều tiện nghi lắm, nhưng vẫn hơn là ngủ ngoài đường".
Nghe tới đây, bà lão vội vàng nói:
- "Tôi xin hết lòng cám ơn. Xin Thiên Chúa trả công bội hậu cho bà. Bây giờ, tôi được giải thoát!". Nói xong, bà cụ biến mất.

Ngay lúc ấy, tôi mới nhận ra bà lão là một Linh Hồn nơi Lửa Luyện Ngục. Chắc chắn khi còn sống, bà cụ đã từ chối không tiếp rước và giúp đỡ một người nào đó, trong cơn túng bẫn. Giờ đây, bà cụ phải đợi cho đến khi có một người sẵn sàng giúp đỡ bà ngay, không so đo do dự, chỉ khi ấy, bà mới được giải thoát khỏi Lửa Đền Tội.

......
Một hôm, một Linh Hồn hiện về và hỏi tôi:
- "Bà có nhận ra tôi không?". Tôi đáp không. Linh Hồn liền nói:
- "Có. Bà đã có lần trông thấy tôi. Hồi năm 1932, bà cùng đi xe lửa với tôi đến Hall. Hôm ấy, tôi ngồi trong cùng một toa với bà". Nghe tới đây, tôi nhớ lại rõ ràng chuyến đi hôm ấy. Phải rồi, đây là người đàn ông khi ngồi trong xe lửa đã lớn tiếng chỉ trích Hội Thánh và Kitô Giáo. Mặc dầu lúc ấy tôi mới có 17 tuổi, nhưng tôi đã hiểu rõ tầm quan trọng của vấn đề. Tôi thẳng thắn nói với ông ta rằng:
- "Bác không phải là người đàng hoàng, vì bác sao nhãng những việc thật thánh thiện".
Ông ta trừng mắt nhìn tôi:
- "Cháu còn quá trẻ, mà dám cho bác một bài học sao? Không, bác không cho phép như thế đâu!". Không hiểu sao tôi vẫn bạo dạn nói:
- "Dầu vậy, cháu vẫn là người thông minh hơn bác!". Nghe thế, người đàn ông cúi gầm mặt xuống và từ đó không mở miệng nói lời nào cả. Khi ông bước xuống xe lửa, tôi liền thầm thĩ kêu van cùng Chúa:
"Xin Chúa đừng để Linh Hồn này bị hư mất đời đời!".
Bây giờ, Linh Hồn này nói với tôi: "Chính nhờ lời cầu nguyện của bà hôm ấy mà tôi được cứu thoát, nếu không tôi đã bị trầm luân trong hỏa ngục rồi! Cám ơn bà nhiều lắm".

.......
Một Linh Hồn hiện về với thùng rác cầm tay. Tôi hỏi:

- "Đây là chìa khóa mở cửa Thiên Đàng cho tôi! Khi còn sống, tôi cầu nguyện rất ít. Họa hoằn lắm tôi mới đến nhà thờ xem lễ một lần. Nhưng một hôm, trước lễ Giáng Sinh, tôi đã tình nguyện quét dọn nhà cửa cho một bà cụ nghèo thật nghèo. Nhờ thế mà tôi được cứu rỗi. Điều này chứng tỏ rằng: tất cả đều tùy thuộc nơi việc chúng ta có thi hành đức bác ái hay không!".

Lần khác, Linh Hồn một Linh Mục hiện về với cánh tay phải đen thui, trông thật hãi hùng! Tôi hỏi lý do Linh Hồn trả lời:
- "Đáng lý tôi phải thường xuyên ban nhiều phép lành hơn nữa! Vậy bà hãy nói với tất cả các Linh Mục bà có dịp gặp, rằng: Xin các cha hãy chúc lành nhiều hơn nữa. Bởi vì, các Linh Mục càng ban nhiều phép lành, càng phân phát được nhiều ơn thiêng, có sức mạnh đẩy xa sự dữ cùng tà ma phá hoại loài người".

Lần kia, một Linh Hồn sau khi trình bày với tôi những gì Linh Hồn cần để được giải thoát khỏi Lửa Luyện Hình, liền nói thêm: "Nếu người ta làm cho tôi điều ấy, tôi sẽ được hài lòng". Chỉ có vậy, không thêm không bớt điều gì nữa, ngoại trừ chi tiết ông ta sống tại đâu và qua đời khi nào.

Tôi lập lại những gì Linh Hồn này xin cho các thân nhân. Các thân nhân tỏ dấu nghi ngờ không tin. Họ muốn biết có phải tất cả các Linh Hồn khi hiện về đều nói câu: "Nếu người ta làm cho tôi điều ấy, tôi sẽ được hài lòng". Tôi trả lời:
- "Không, cho đến bây giờ thì đây là lần đầu tiên, một Linh Hồn nói như thế". Các thân nhân muốn biết thêm tại sao Linh Hồn lại nói như vậy. Tôi trả lời: "Không biết!". Họ liền nói:
- Thế thì chúng tôi biết tại sao. Đó là phương châm của thân phụ quá cố chúng tôi. Lúc còn sống, người thường nói: "Nếu các con làm điều đó, cha rất hài lòng". Vì thế, chúng tôi tin lời bà.

Những người này không còn đến nhà thờ tham dự thánh lễ Chúa nhật nữa. Đối với họ, đây là giới luật của Hội Thánh chứ không phải một giới răn đến từ Thiên Chúa. Tôi giải thích cho họ hiểu:
"Nơi cuộc sống vĩnh cửu, một giới răn do Giáo Hội đặt ra cũng có giá trị y như một giới luật đến từ Thiên Chúa. Chỉ có sự khác biệt duy nhất: Giáo Hội có thể xóa bỏ hay thay đổi một giới luật do Giáo Hội đặt ra, trong khi giới răn đến từ Thiên Chúa thì bất biến. Giáo Hội không được phép cũng không có quyền thay đổi giới luật của Thiên Chúa".
Một Linh Hồn thú nhận với tôi rằng:
- "Tôi đã phạm một tội ác chống lại Thiên Chúa. Một ngày, trong cơn giận bốc cao, tôi vứt mạnh Thánh Giá Chúa Giêsu xuống đất, rồi lấy chân đạp nát! Vừa đạp, tôi vừa thách thức: Nếu Thiên Chúa hiện hữu thật sự, Ngài không để cho điều ấy xảy ra! Nhưng Thiên Chúa không dung tha cho kẻ nào dám chế nhạo Ngài. Tôi bị phạt nằm cứng đơ tại chỗ. Nhưng hình phạt bất toại này lại là ơn cứu rỗi cho tôi!". Kể xong, Linh Hồn xin tôi nhắn lại với người vợ, những gì bà phải làm để có thể giảm bớt hình phạt nặng nề của ông nơi Lửa Luyện Ngục.
Khi tôi lập lại những điều ông ta nói với vợ, bà này tỏ ra vô cùng kinh hãi. Từ lâu, bà đã rời bỏ Giáo Hội Công Giáo. Bà nói với tôi:
- "Chuyện chồng tôi xúc phạm đến Thánh Giá Chúa Giêsu, chỉ duy nhất hai vợ chồng chúng tôi biết. Tôi không hề tiết lộ với ai. Chồng tôi cũng không thể nào kể lại cho ai nghe. Nếu Linh Hồn đó có thể nói như thế, tôi xin tin lời bà".

Sau đó, bà ta ăn năn thống hối và trở về với Giáo Hội Công Giáo.

Linh Hồn một bác sĩ hiện về than thở về hình phạt nặng nề ông đang phải đền trong Lửa Luyện Ngục. Lý do là khi còn sống, trong lúc hành nghề, ông đã chích thuốc cho các bệnh nhân làm giảm cơn đau, nhưng cùng lúc, khiến họ chóng chết. Giờ đây, ông mới thấy rõ tầm quan trọng và giá trị lớn lao của đau khổ, nhất là những đau khổ được chấp nhận với lòng kiên nhẫn, nang lại một giá trị vô biên. Linh Hồn nói:
- "Người ta được phép làm giảm bớt các đau đớn quá lớn, nhưng không được quyền rút ngắn cuộc sống của các bệnh nhân, bằng những phương tiện hóa học, y khoa".

........
Một ngày, một người đàn ông đến nhà tôi. Ngay từ nơi hành lang, ông cất tiếng hỏi với một giọng khinh khi:
- "Cái bà thường đùa giai với vụ các Linh Hồn ở Luyện Ngục hiện về, đang trốn xó nào rồi?".
Tôi trả lời:
- "Xin ông đi về phía này. Tôi đang đứng ở đây. Và không có chuyện đùa giai với các Linh Hồn nơi Lửa Luyện Hình đâu!".
Nghe vậy, ông ta lầm bầm trong miệng, rồi đi thẳng vào vấn đề:
- "Bà có phải là người mà ông E. hiện về với bà không?". Thì ra ông ta là người nhà của ông E. mà tôi đã thông truyền lại những gì ông E. nhắn gởi. Ông E. muốn người nhà phải hoàn trả lại tài sản đã chiếm hữu cách bất chính.
Sau khi nghe tôi xác nhận, ông ta nổi giận đùng đùng, quát tháo ầm ĩ:
- "Tài sản nào đã chiếm hữu bất chính mà chúng tôi phải hoàn trả lại?".
Tôi trả lời:
- "Tài sản nào thì tôi không biết. Ông E. chỉ nhờ tôi nói lại với người nhà như thế. Chính người nhà của ông E. phải biết rõ đâu là tài sản đã chiếm hữu bất chính và phải hoàn trả lại cho chủ nhân".
Vừa trả lời, tôi vừa nghĩ là ông ta biết rõ tài sản nào. Thế rồi, theo lời ông ta nói, tôi biết ông là người không sống đạo và chỉ trích mọi người từ Đức Thánh Cha đến các Giám Mục, Linh Mục và Giáo Hội Công Giáo. Tôi từ từ giải thích cho ông hiểu mọi chuyện. Ông dịu hẳn lại và nói:
- "Nếu quả đúng như vậy, tôi phải thay đổi cuộc sống. Tôi không tin tưởng nơi một Linh Mục nào hết, nhưng giờ đây, tôi phải bắt đầu đặt niềm tin nơi Thiên Chúa, bởi vì, bà không thể nào biết được trong gia sản của chúng tôi, có những tài sản mà chúng tôi đã chiếm hữu cách bất hợp pháp. Kể cả các thân nhân họ hàng của chúng tôi, phần đông cũng không biết điều này..".
Lần kia, Linh Hồn hiện về với tôi là một bà mẹ gia đình. Linh Hồn nói:
- "Tôi bị giam cầm đền tội nơi Lửa Luyện Ngục trong vòng 30 năm trời. Lý do là vì tôi đã ngăn cản không cho phép con gái tôi gia nhập dòng tu".
Linh Hồn nói thêm:
- "Khi các bậc cha mẹ phải dâng con cho Chúa và khi Thiên Chúa gọi con cái vào chức vụ Linh Mục hoặc đời sống tu trì, mà cha mẹ ngăn cản, cha mẹ chịu một trách nhiệm vô cùng nặng nề .. Có rất nhiều người trẻ, đáng lý đã trở thành linh mục hoặc tu sĩ, nhưng không được cha mẹ cho phép. Các cha mẹ này phải trả lẽ nặng nề trước mặt Thiên Chúa".

Một người đàn ông viết cho tôi rằng, vợ ông qua đời đã hơn một năm. Nhưng kể từ đó, đêm nào phòng ông cũng bị đập ầm ầm, không ngủ được. Ông xin tôi đến, xem có thể làm được gì giúp ông không.
Tôi nhận lời nhưng nói trước có lẽ tôi không làm được gì nhiều. Nếu vợ ông chưa được phép hiện về, đành phải phó thác mọi sự trong tay Chúa Quan Phòng. Tôi đến và ngủ trong phòng đó. Vào khoảng 23 giờ 30 phút, tiếng đập cửa bắt đầu nổi lên. Tôi cất tiếng hỏi: "Linh Hồn muốn gì? Tôi có thể làm gì giúp cho Linh Hồn?". Tôi không thấy ai cũng không nghe tiếng trả lời. Tôi nghĩ là bà này chưa được phép nói. Sau khoảng 5 phút, một con hà mã xuất hiện. Trông thật khủng khiếp. Tôi liền rảy nước thánh và hỏi:
"Tôi phải làm cách nào để giúp Linh Hồn?". Vẫn không có tiếng trả lời. Tức khắc, xuất hiện một con rắn khổng lồ. Con rắn quấn chặt quanh con hà mã, như để bóp chết. Rồi cả hai con thú biến mất. Tôi buồn rầu tự nhủ: "Không lẽ Linh Hồn này bị trầm luân đời đời sao?". Một lúc sau, một Linh Hồn khác xuất hiện. Linh Hồn này an ủi tôi:
- "Đừng sợ. Bà ấy không bị rơi xuống hỏa ngục đâu. Nhưng bà bị một thứ hình phạt nơi Luyện Tội dữ dằn nhất. Lý do là khi còn sống, bà đã giữ mối hận thù triền miên với một phụ nữ khác. Phụ nữ này đã nhiều lần tìm cách xin lỗi và làm hòa, nhưng bà ấy nhất định từ chối, ngay cả khi bị bệnh nặng gần chết!".

Câu chuyện Linh Hồn trên đây cho thấy Thiên Chúa trừng phạt nặng nề những tội phạm lỗi đức bác ái, chống lại người thân cận.

(Maria Simma, "Les Âmes du Purgatoire m'ont dit", Editions Du Parvis, 1990).

LÒNG TRI ÂN CỦA CÁC LINH HỒN NƠI LỬA LUYỆN NGỤC


Soeur Jean Berchmans Minh Nguyệt

Khi tu viện Đức Bà được khởi công tại Aversa, gần thành phố Napoli, Nam Ý, cha Hilarion Thánh-Antôn, được chỉ định làm người điều khiển công cuộc xây cất. Cha Hilarion là một tu sĩ thánh thiện. Mỗi buổi sáng, cha đều dâng thánh lễ trước khi bắt đầu công việc.

Một ngày, ông Gioan đến xin giúp lễ cho cha Hilarion. Ông là giáo dân phụ cha trong chức vụ quản lý. Sáng hôm ấy, cha Hilarion dâng lễ cầu nguyện cho các Đẳng Linh Hồn nơi Lửa Luyện Ngục. Ông Gioan cũng rước lễ hiệp ý với cha .. Sau thánh lễ, cha Hilarion mời ông chia sẻ bữa ăn trưa thanh đạm với mình. Ông Gioan nhận lời.

Đến giờ, ông Gioan đến nơi như đã hẹn. Vừa bước vào dãy nhà trong, nơi hành lang, ông gặp ngay một thanh niên dáng điệu thanh nhã, ăn mặc sang trọng, đang đứng đó. Chàng ngỏ ý muốn gặp cha Hilarion để bàn về một vấn đề quan trọng. Ông Gioan vội báo tin cho cha Hilarion biết. Nhưng cha nhất mực từ chối, không muốn gặp chàng thanh niên, lấy lý do không phải giờ tiếp khách. Ông Gioan trở ra giải thích việc cha Hilarion không thể tiếp chàng. Nhưng chàng thanh niên nài nĩ xin gặp cha. Chàng nói rõ hơn ý hướng của chàng: "Nhân danh tình yêu Thiên Chúa, xin cha Hilarion hãy chia sẻ cho tôi một ít bánh ăn của cha".

Khi nghe ông Gioan lập lại lời xin, cha Hilarion tỏ ra vô cùng ngạc nhiên. Cha tự nhủ: "Làm sao một thanh niên nhã nhặn quý phái như thế, đáng lý phải rộng tay làm phúc cho người khác, đàng này, lại ngửa tay xin bánh ăn của một thày dòng?". Dầu nghĩ vậy, cha Hilarion vẫn vui vẻ ra gặp chàng. Cha xin chàng vui lòng đợi một chút. Rồi cha đi vào nhà trong, đến thùng đựng bánh, lấy ra một ổ bánh. Cha rút nhằm chiếc bánh ngon nhất, dù cha không có ý chọn. Cha định đổi ổ bánh khác, ít ngon hơn để biếu cho chàng ăn xin. Nhưng một ý nghĩ thoáng hiện ra trong đầu: "Tại sao lại có sự so đo khác biệt này? Biết đâu chàng thanh niên lại chẳng là một thiên thần, sứ giả của Thiên Chúa, đến từ Trời Cao? Bởi vì, quả thế, chàng đã vào tận nhà trong, khi mà mọi cổng ra vào đã đóng kín?".

Nghĩ thế, nên cha Hilarion giữ nguyên ổ bánh mì ngon và chọn thêm một vài thức ăn khác, rồi đem tất cả biếu cho chàng thanh niên ăn mặc sang trọng kia. Cha xin chàng vui lòng chấp nhận các thức ăn đạm bạc, vì chàng đến bất ưng. Rồi cha để chàng ngồi đó dùng bữa và lui vào phòng bên cạnh để ăn trưa với ông Gioan.

Nhưng cả hai người không tài nào ăn được một miếng. Bởi lẽ, cả hai gần như hoảng hồn, ngẩn ngơ với nghi vấn: "Làm sao người thanh niên có thể vào tận nhà trong, khi các cửa ra vào đều đóng kín?". Đối với cha Hilarion, người khách lạ với dung nhan tuyệt mỹ, không ai khác là một Thiên Thần đến từ Trời Cao. Trong khi ông Gioan lại nói:
- "Biết đâu người khách là một trong những Linh Hồn nơi Lửa Luyện Hình, chúng ta đã cùng nhau cầu nguyện trong thánh lễ sáng nay?".

Sau một lúc, ước tính người khách đã dùng bữa xong, ông Gioan liền đến chào từ biệt. Vừa trông thấy ông, chàng thanh niên nhã nhặn đứng lên và nói:
- "Thưa ông, chúng ta hãy dâng lời cảm tạ Thiên Chúa. Hãy cùng nhau đọc một kinh LẠY CHA và một kinh KÍNH MỪNG, cầu cho các Đẳng Linh Hồn còn bị giam cầm trong Lửa Luyện Tội". Nói xong, người khách quỳ ngay xuống, chắp tay lại, ngước mắt lên Trời và sốt sắng đọc kinh. Xong, chàng đọc thêm lời nguyện của ngày Chúa Nhật và kinh Truyền Tin. Rồi đứng lên, chàng cầm lấy tay ông Gioan và nói:
- "Xin ông thưa lại với cha Hilarion rằng: Kể từ nay, đừng cầu nguyện cho Linh Hồn thân phụ của cha nữa, bởi vì, ngay chính lúc này đây, Linh Hồn thân phụ cha bay thẳng lên Trời". Nói xong, chàng thanh niên biến mất, như sương mù tan đi khi có ánh sáng mặt trời.

Ông Gioan kinh hoảng, đứng im như trời trồng. Khi hoàn hồn, ông gọi to tiếng: "Cha, cha Hilarion ơi!". Nhưng tiếng kêu như bị chặn đứng trong họng. Khi cha Hilarion chạy đến thì ông Gioan nằm bất tỉnh. Phải lâu lắm cha mới làm cho ông tỉnh lại và kể cho cha nghe lời người thanh niên nói. Cả hai đồng thanh dâng lời cảm tạ lòng nhân từ của Chúa, đã đoái thương cho hai người chiêm ngưỡng một phần nào dung nhan tuyệt vời của Linh Hồn được gọi vào hưởng tôn nhan Chúa.

("Le Ciel Parmi Nous", Editions Bénédictines, 1997, trang 142-145).


CÁC ĐẲNG LINH HỒN Trong Luyện Ngục




Vào năm 1827, tại thủ đô Paris nước Pháp có một thiếu nữ giúp việc nghèo thật nghèo nhưng vô cùng quảng đại. Cô tên Têrêsa. Têrêsa có thói quen lành thánh: mỗi tháng xin một thánh lễ cầu cho các đẳng Linh Hồn trong Luyện Ngục. Nhưng rồi Thiên Chúa thử thách cô bằng một chứng bệnh hiểm nghèo, khiến cô vô cùng đau đớn. Têrêsa bị mất việc làm và tiêu tán tiền của. Ngày cảm thấy kha khá, Têrêsa ra khỏi nhà với vỏn vẹn 20 xu trong túi. Cô rảo qua các khu phố để tìm việc làm. Khi đi ngang nhà thờ thánh Eustache, Têrêsa ghé vào cầu nguyện. Bỗng cô sực nhớ ra là tháng ấy, cô chưa xin lễ cho các đẳng Linh Hồn. Nhưng Têrêsa thoáng chút do dự. Số tiền 20 xu cũng là lương thực cho cô trong ngày hôm ấy. Nhưng Têrêsa không do dự lâu. Cô biết mình phải làm gì. Bất ngờ một linh mục bước vào nhà thờ, chuẩn bị dâng thánh lễ. Têrêsa hỏi cha có bằng lòng dành thánh lễ hôm ấy để cầu cho các đẳng Linh Hồn không. Cha vui vẻ nhận lời với số tiền dâng cúng 20 xu của Têrêsa .. Thánh lễ cầu cho các đẳng Linh Hồn chỉ có vị linh mục chủ tế và một giáo dân tham dự.

Lễ xong, Têrêsa ra khỏi nhà thờ tiếp tục đi lang thang tìm việc làm. Têrêsa thật sự lo lắng vì đi mãi mà không có hy vọng gì hết. Bỗng một chàng trai dáng vẽ quí tộc tiến đến gần và hỏi: "Cô tìm việc làm phải không?". Têrêsa nhanh nhẹn trả lời: "Thưa ông phải". Người thanh niên nói tiếp: "Cô hãy đến đường X nơi nhà số Y, chắc chắn cô sẽ có việc làm và sẽ được hạnh phúc". Nói xong, chàng trai bỏ đi ngay không đợi nghe lời Têrêsa rối rít cám ơn.

Khi tìm được căn nhà đúng số đã chỉ, Têrêsa thấy một cô giúp việc từ trong nhà đi ra, nét mặt cau có khó chịu. Têrêsa rụt rè hỏi thăm bà chủ có nhà hay không? Cô kia đáp lửng lơ: "Có lẽ có .. có lẽ không .. nhưng có hệ gì! vì đâu có dính dáng gì đến tôi". Nói xong, cô gái ngoay ngoảy bỏ đi.

Têrêsa run rẩy bấm chuông. Một tiếng nói dịu dàng bảo vào. Têrêsa bỗng đối diện với một phụ nữ cao niên quí phái. Bà nhẹ nhàng bảo Têrêsa hãy trình bày cho bà biết cô muốn gì. Têrêsa nói nhanh:
- "Thưa bà, sáng nay cháu hay tin bà cần một người giúp việc. Cháu xin đến nhận chỗ làm này. Người ta bảo đảm với cháu là bà sẽ tiếp nhận cháu với lòng nhân hậu".
Bà chủ ngạc nhiên nói với Têrêsa:
- "Điều cháu vừa nói thật là lạ. Sáng nay bà chả cần ai hết. Nhưng cách đây nửa giờ bà vừa đuổi một cô giúp việc vì nó chễnh mãng trong việc làm. Chuyện này chưa hề có người nào biết, ngoại trừ bà và cô giúp việc. Vậy thì ai đã chỉ cho cháu đến đây?".
Têrêsa đơn sơ trả lời:
- "Một thanh niên dáng điệu sang trọng, cháu gặp ngoài đường, đã bảo cháu đến đây".

Bà chủ nhà thử tìm cho biết người thanh niên ấy là ai, nhưng vô hiệu.
Bỗng Têrêsa nhìn lên và trông thấy tấm hình một chàng trai treo trên tường. Têrêsa mừng rỡ kêu lên:
- "Thưa bà, bà không cần phải tìm đâu cho xa. Đây chính là gương mặt người thanh niên đã nói chuyện với cháu. Chính anh ta đã chỉ đường cho cháu đến đây".

Vừa nghe xong, bà chủ nhà kêu lên một tiếng thất thanh, như muốn ngã xuống bất tỉnh. Xong, bà bảo Têrêsa tỉ mỉ kể lại cho bà nghe, bắt đầu từ chuyện cô có lòng thương mến các đẳng Linh Hồn, đến Thánh Lễ sáng hôm ấy, rồi chuyện gặp gỡ chàng thanh niên.
Khi Têrêsa chấm dứt, bà chủ âu yếm ôm hôn cô và nói:
- "Cháu không phải là đầy tớ giúp việc cho bà, nhưng từ giờ phút này, cháu là con gái bà. Chàng thanh niên mà con trông thấy chính là đứa con trai độc nhất của bà. Con bà chết cách đây hai năm và ngày hôm nay chính con đã giải thoát nó ra khỏi Lửa Luyện Hình. Bà chắc chắn như thế. Bà hết lòng ghi ơn con. Giờ đây chúng ta hãy cùng nhau cầu nguyện cho tất cả những Linh Hồn còn chịu thanh tẩy trong Lửa Luyện Ngục trước khi được vào hưởng hạnh phúc vĩnh cửu muôn đời.

(Jacques Lefèvre, "Les Âmes du Purgatoire dans la vie des Saints", Editions Résiac, 1995, trang 35-37).
***************************************************************************

TRÀNG CHUỖI MÂN CÔI

SỨC MẠNH CỨU RỖI CỦA TRÀNG CHUỖI MÂN CÔI

Soeur Jean Berchmans Minh Nguyệt


.. Trích sử liệu cuộc đời thánh Giuseppe Cafasso, người Ý.

Vào một sáng tinh sương, thánh Giuseppe Cafasso ra khỏi nhà thật sớm. Đường phố Torino, Bắc Ý, vắng lặng trống trơn. Bỗng thánh nhân gặp một cụ bà, ăn mặc nghèo nàn, dáng điệu lòm khòm, vừa đi vừa chậm rãi lần hạt Mân Côi. Ngạc nhiên, thánh nhân cất tiếng hỏi:
- "Có chuyện gì vội mà cụ phải ra khỏi nhà sớm thế?". Bà cụ trả lời:
- Ô, thưa ngài, con đi dọn sạch các đường phố.
Không hiểu, thánh Giuseppe Cafasso hỏi lại:
- "Dọn sạch các đường phố? Cụ ngụ ý nói gì thế?". Bà cụ thong thả đáp:
- Cha không thấy sao? Đêm vừa qua, diễn ra cuộc vui chơi trá hình ('carnavale') và dân chúng phạm không biết bao nhiêu thứ tội. Vì thế, giờ đây, con muốn đi trở lại tất cả các nẻo đường ghi dấu vết tội lỗi, vừa đi vừa lần hạt Mân Côi. Các lời kinh 'Kính Mừng Maria' sẽ trở thành hương thơm ngào ngạt tỏa ra thấm vào các nơi chốn tội lỗi!.

Thật vậy, lời Kinh Mân Côi có sức mạnh tẩy luyện linh hồn khỏi các vết nhơ tội lỗi và ướp đượm ơn lành. Kinh Mân Côi cứu thoát các linh hồn. Thánh Massimiliano-Maria Kolbe từng nói: "Bao nhiêu tràng chuỗi Mân Côi là bấy nhiêu linh hồn được cứu rỗi!". Kinh Mân Côi mang lại sự lành cho tất cả mọi người: từ kẻ tội lỗi đến người tốt lành cũng như các bậc thánh nhân.

Khi được hỏi ý kiến phải chọn lời kinh nào, thánh Filippo Neri không do dự trả lời ngay: "Hãy lần hạt Mân Côi và lần hạt nhiều bao nhiêu có thể". Đức Giáo Hoàng Phaolo VI cũng quả quyết rằng: "Tràng Kinh Mân côi là tràng xích cứu rỗi, rơi từ đôi tay chí thánh của Chúa Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ con người và của Đức Maria, Hiền Mẫu Ngài. Tràng chuỗi Mân Côi tuôn đổ xuống trên chúng ta muôn vạn ơn lành. Và cũng từ tràng chuỗi Mân Côi, chúng ta dâng lên Các Ngài mọi ước muốn cùng trọn niềm hy vọng của chúng ta".

Tràng chuỗi Mân Côi còn có sức mạnh lớn lao cứu thoát các Linh Hồn nơi Lửa Luyện Ngục. Thánh Alfonso de Liguori nhắn nhủ con cái ngài rằng: "Nếu muốn cứu giúp các linh hồn nơi Luyện Hình, hãy lần hạt Mân Côi cầu nguyện cho các vị ấy". Thánh Pio da Pietrelcina, mỗi lần trao tặng ai tràng chuỗi Mân Côi, ngài thường nói: "Hãy đưa các Linh Hồn ra khỏi Luyện Ngục bằng việc lần hạt Mân Côi kính Đức Mẹ".. Vị thánh người Ý có lòng nhiệt thành an ủi các Linh Hồn nơi Lửa Luyện Tội bằng tràng kinh Mân Côi là thánh Pompilio Pirrotti. Thánh nhân được đặc ân lần hạt hạt chung với các đẳng Linh Hồn. Các đẳng Linh Hồn thưa lớn tiếng lời kinh Kính Mừng Maria với giọng trầm tĩnh và an bình, suốt trong buổi lần hạt Mân Côi chung với thánh Pompilio Pirrotti.

Chị Lucia dos Santos, một trong ba trẻ mục đồng Fatima còn sống và là nữ tu dòng Kín Cát-Minh cũng nhấn mạnh: "Kể từ khi Đức Trinh Nữ Rất Thánh Maria ban cho Tràng Kinh Mân Côi có một hiệu lực mênh mông, không còn vấn đề nào thuộc bất cứ phạm vi tinh thần hay vật chất, quốc gia hay quốc tế, mà lại không giải quyết được với Kinh Mân Côi và với những hy sinh quảng đại của chúng ta".

Kinh Mân Côi và Trái Tim Vẹn Sạch Đức Maria (Khiết Tâm Đức Mẹ) sẽ ghi dấu chứng chiến thắng sau cùng của Nước Thiên Chúa nơi thời đại chúng ta đang sống.
Lòng hâm mộ lần hạt Mân Côi và lòng sùng kính Khiết Tâm Đức Mẹ là những bảo chứng chắc chắn cho ơn cứu rỗi loài người. Chính Đức Mẹ đã hứa với chị Lucia dos Santos rằng: "Những ai siêng năng lần hạt Mân Côi và yêu mến Trái Tim Vẹn Sạch Mẹ, sẽ được Thiên Chúa yêu dấu cách riêng và sẽ trở thành bông hoa được Mẹ kết lại và dâng lên trước tòa Chúa".

(P. Stefano Maria Manelli, "MAGGIO, mese di MARIA", Casa Mariana Editrice, 1999, trang 192-197).
***************************************************************************

ĐỨC MẸ BAN ƠN

ẢNH VẢY PHÉP LẠ - ẢNH ĐỨC MẸ BAN ƠN

Soeur Jean Berchmans Minh Nguyệt


.. Câu chuyện xảy ra hồi thế chiến thứ hai 1939-1945 và do nữ tu Catarina kể lại.

Trong thời quân Đức chiếm đóng Verviers, vương quốc Bỉ, tôi giữ nhiệm vụ chăm sóc bệnh nhân trong trại tù người Đức. Một buổi sáng, tôi đến giúp người tỵ nạn nơi trung tâm tiếp cứu. Tại đây, tôi trông thấy một thiếu nữ trạc tuổi 20. Cô là người Nga, Công Giáo và sinh tại Ba lan. Nét mặt cô buồn áo não đến độ tôi đặc biệt chú ý ngay đến cô. Tôi gợi chuyện hỏi lý do. Cô trả lời: "Em rất thích và muốn sống, nhưng chỉ trong vài ngày nữa, tất cả đều chấm dứt đối với em. Em bị kết án tử hình!". Tôi hỏi: "Em là tín hữu Công Giáo phải không?". Cô đáp: "Thưa phải, em là người Công Giáo". Tôi cởi dây đeo có ảnh vảy phép lạ, hay cũng gọi là ảnh Đức Mẹ ban ơn, trao cho cô và nói: "Em hãy nhận dây đeo và ảnh Đức Mẹ. Hãy mang nơi cổ và để lộ rõ ràng ảnh vảy phép lạ. Rồi hãy thực hiện câu nói của thánh nữ Jeanne d'Arc: Kẻ nào không biết liều thì cũng chả biết thành công là gì!".

Nghe tôi nói thế, cô thiếu nữ Công Giáo hiểu ngay đã đến lúc phải tìm đường tẩu thoát...
Một buổi sáng tinh sương, cô ta trốn khỏi trại và chạy như bay, băng qua cánh đồng. Cô càng ra sức chạy mau hơn, khi thoáng thấy đàng sau, có người đang đuổi theo. Cô hoảng hồn thất vía. Vừa chạy cô vừa nắm chặt ảnh vảy phép lạ và thành khẩn kêu van, xin Đức Mẹ cứu cô thoát chết. Sau cùng, người thanh niên cũng đuổi kịp. Anh ta nói: "Cô chạy trốn phải không? Tôi thấy cô là tín hữu Công Giáo. Còn tôi là người Mỹ. Vậy tôi sẽ giúp cô. Cô đừng sợ!".

Viên sĩ quan trẻ tuổi cư xử với thiếu nữ người Nga như thể cô ta là hôn thê của mình. Trong khi đó, cô gái chỉ mong ước một điều duy nhất: được tự do!.

Khi cả hai đến được Hoa Kỳ, chàng thanh niên Mỹ trả lại tự do thực sự cho cô gái và nói: "Tôi đã cứu sống cô. Đúng thế. Nhưng tôi không lạm dụng lý do này để cầm giữ cô. Tôi cầu chúc cô tìm thấy một hôn phu khác". Cô gái cảm động trả lời: "Tôi không quen biết ai nơi đây. Nhưng anh đã cứu tôi thoát chết. Bây giờ tôi được hoàn toàn tự do. Tôi xin dùng tự do của tôi để chứng tỏ lòng tôi ghi ơn anh. Tự do của tôi không gì khác là được ở cạnh anh mãi mãi!".

.. Thế là đôi bạn trẻ, một Nga một Mỹ, quyết định thành hôn. Một năm sau, họ sinh đứa con đầu lòng. Sau lễ nghi rửa tội của đứa bé, họ viết thư cho tôi kể lại câu chuyện trốn thoát thành công và cuộc sống hiện tại nơi đất Hoa Kỳ. Họ hạnh phúc bên nhau và nhất là, lòng đầy tràn tâm tình cảm tạ dâng lên Đức Maria, Hiền Mẫu Chí Thánh.

Một linh mục dòng Tên thuật lại.
Khi chúng tôi mua chiếc xe hơi mới, có người tặng hai mẫu ảnh vảy phép lạ. Tôi đặt hai mẫu ảnh Đức Mẹ ban ơn nơi hộp đựng găng tay trong xe, và không chú ý cho lắm.. Hai năm sau, tôi và linh mục bạn di chuyển trên xa lộ và chạy qua một chiếc cầu. Bỗng xe đâm vào thành cầu và rớt xuống. Chiếc cầu cao 32 thước. Mọi người chứng kiến tai nạn đều đinh ninh ai ở trong xe đều toi mạng! Phần chúng tôi, khi xe rớt xuống vực sâu, tôi hỏi người bạn: "Anh có việc gì không?". Anh trả lời: "Không". Chúng tôi càng cảm động và kinh ngạc hơn nữa khi nhận thấy trên đầu gối mỗi người, có một ảnh vảy phép lạ.. Thật là diệu kỳ.
Suốt đời, tôi không bao giờ quên ơn Đức Mẹ đã phù trì che chở chúng tôi thoát chết một cách lạ lùng như thế.

(Albert Pfleger, "Fioretti de la Vierge Marie", Mambre Editeur 1992, trang 37+75)
***************************************************************************

23/6/09

Hong An Thien Chua