Pages

Hiển thị các bài đăng có nhãn Phép lạ. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Phép lạ. Hiển thị tất cả bài đăng

16/10/09

Những cánh hoa hồng huyền diệu

Chiều thứ Ba, ngày 30-6-2009 vừa qua, chúng tôi được anh chị nhiếp ảnh gia Thái Đắc Nhã cho đi chung xe đến nhà thờ Thánh Antôn (St. Anthony Church), số 710 E. Grand Avenue, thuộc thành phố El Segundo, cách Little Sàigòn khoảng 30 phút lái xe để chứng kiến một sự kiện nhiều người gọi là “phép lạ” do một người Philippines thực hiện.

Anh Cortez đang lặt những cánh hoa hồng cho vào tô nước


ảnh: Thái Đắc Nhã/Viễn Đông.

Trước khi đi, cô Thanh Hằng, phu nhân của anh Thái Đắc Nhã ghé tiệm hoa mua 5 bông Hồng Bạch mang theo. Vì chưa biết chuyện gì sẽ xảy ra, chúng tôi hỏi anh chị Nhã xem câu chuyện thế nào. Cô Thanh Hằng nói:
- Tụi tôi cũng mới nghe thôi, nên bữa nay lần đầu tiên lên coi thực hư ra sao, nghe họ nói: “Đức Mẹ sẽ hiện ra trên những cánh hoa Hồng mình mang theo, vì thế tôi mua năm bông Hồng, lát nữa cho mỗi người một bông”.

Anh Thái Đắc Nhã lái xe đưa 5 người chúng tôi tới nhà thờ Thánh Antôn vào lúc 6 giờ chiều. Thánh lễ cử hành lúc 7 giờ tối, còn quá sớm nên chúng tôi vào nhà thờ cầu nguyện ít phút, sau đó đi chụp hình vài chỗ trong và ngoài nhà thờ. Thánh đường Thánh Antôn rộng và đẹp, nhất là gian cung thánh.

Hơn 6 giờ, số giáo dân gồm nhiều sắc dân khác nhau bắt đầu kéo đến mỗi lúc một đông, trong đó chúng tôi thấy có mặt một số bác sĩ người Việt đang hành nghề tại Little Sàigòn cùng gia đình. Một người trông coi nhà thờ đưa một bức tượng Đức Mẹ Maria cao khoảng 60 centimet ra đặt trên một bàn nhỏ phủ khăn trắng, phía trước bàn thờ, ở phía tay phải bên cạnh bục đọc sách thánh. Ông cũng mang một số bình cắm hoa để sẵn dưới chân tượng Đức Mẹ cho mọi người cắm những bông hoa Hồng trắng của mình vào đó.

Cũng như anh Thái Đắc Nhã và cô Thanh Hằng, rất nhiều người mang hoa đến, chỉ trong khoảng 20 phút, hàng trăm bông Hồng trắng đã được cắm vào các chậu ngay ngắn dâng cho Đức Mẹ.

Đúng 7 giờ tối, một Linh mục và một Thầy Phó tế từ cuối thánh đường tiến lên cung thánh cử hành Thánh lễ. Khoảng 600 người có mặt trong nhà thờ tham dự Thánh lễ một cách sốt sắng.

Lễ xong, anh Carmelo Cortez, một giáo dân Philippines trạc 40 tuổi, ăn mặc đơn sơ bước ra trước bàn thờ, cúi mình trước Thánh Thể, sau đó anh ngỏ lời chào mọi người có mặt, và cho biết anh cảm thấy rất vui khi số người đến đây hôm nay quá sức đông đảo, đầy kín các hàng ghế trong thánh đường rộng lớn này. Anh kêu mời mọi người cùng anh cầu nguyện với Chúa và Đức Mẹ. Sau đó anh mang ra hai chai nước lọc, loại chai Aquafina hay Arrowhead 500 ml thường bán ở chợ, chưa khui. Anh Cortez trao cho Linh mục và Thầy Phó tế, mỗi người một chai và nói: “Xin Cha và Thầy khui ra, uống mỗi người một ít và xác nhận xem nước gì?”. Linh mục và Thầy Phó tế cùng mở nắp hai chai nước và uống như anh người Phi nói. Sau khi uống, hai vị này cười và nói với mọi người “Nước lọc, hoàn toàn không có mùi vị gì cả”.

Anh Cortez cầm xâu chuỗi cho một đầu vào trong chai nước, đầu kia anh cầm kéo lên kéo xuống vài ba lần (cả hai chai nước đều làm như nhau). Chúng tôi lại gần quan sát, thấy tay anh làm, miệng anh lâm râm cầu nguyện.. Sau đó anh cầm hai chai nước đổ vào một cái tô thủy tinh trong suốt để sẵn trước bàn thờ. Rất lạ lùng, nước đổi màu liền, từ trong vắt chuyển sang màu trắng đục như sữa. Anh Cortez xin Linh mục lấy một nhánh hoa Hồng nhúng vào nước đó rảy trên những đóa Hồng đang để trước tượng Đức Mẹ và rảy nước đó trên đầu mọi người. Linh mục làm như yêu cầu của anh Cortez. Một chuyện lạ thứ hai xảy ra, khi Linh mục rảy nước này lên, một mùi thơm hoa Hồng ngào ngạt tỏa ra khắp nhà thờ, ai cũng ngửi thấy, nhiều người trố mắt ngạc nhiên, lấy hai tay xoa lên đầu rồi ngửi mùi thơm trong tay có dính nước.

Sau khi Linh mục rảy nước trên đầu mọi người, cha về lại chỗ anh Cortez đứng. Anh nhờ hai ba người phụ đem tất cả những bông Hồng đang để trước tượng đó lên, lặt riêng từng cánh hoa bỏ vào cái tô thủy tinh lớn, còn những cành và lá đem bỏ đi. Sau đó anh cho mọi người biết, bây giờ là lúc sự huyền nhiệm xẩy ra. Mỗi người sẽ nhận một cánh Hồng do chính anh để vào ngực, ngay dưới cổ, người nhận hãy giữ lấy và sốt sắng cầu nguyện thì sẽ thấy ơn lạ. Anh Cortez đặt cánh hoa Hồng đầu tiên lên ngực Linh mục, sau đó đến thầy Phó tế, các người giúp lễ rồi mới đến giáo dân.

Mọi người trong nhà thờ chờ giây phút “linh thiêng” đến với mình nên theo thứ tự từng hàng ghế, sắp hàng đôi tiến lên cung thánh. Anh Cortez một tay lấy cánh Hồng đặt vào phía dưới cổ giáo dân, một tay để trên đầu họ cầu nguyện. Vừa ra khỏi vị trí đó vài bước, chưa kịp trở về ghế ngồi, nhiều người đã vội vã lấy cánh Hồng ra xem, và thật là huyền diệu, hầu như ai cũng nhận được một hình ảnh nằm trong cánh hoa Hồng của mình, có người thấy Đức Mẹ Sầu Bi, có người thấy trong cánh Hồng của mình có hình Thánh Gia Thất, hình Đức Mẹ Guadalupe, Đức Mẹ Lộ Đức, hình Chúa Giêsu trên Thập giá, hình Thánh Giuse.....

Chúng tôi thấy vị Linh mục đang giơ cánh Hồng của mình lên coi, liền lại gần nhìn xem hình gì. Cha chỉ cho chúng tôi xem hình Đức Mẹ Guadalupe rất rõ trên cánh hoa Hồng cha nhận được, và ngài cũng tỏ vẻ ngạc nhiên. Cô Thanh Hằng rất vui mừng khi nhận được hình Đức Mẹ ban ơn trên cánh Hồng của mình, còn anh Thái Đắc Nhã cho biết, lúc anh đứng sát cái tô thủy tinh đựng cánh Hoa Hồng, anh đã nhìn thấy hình Chúa trong một cánh hoa. Không biết nhiếp ảnh gia này nói thật hay nói đùa, chúng tôi không dám hỏi thêm. Người viết bài này nhận một cánh Hồng trong đó có hình Đức Mẹ chắp hai tay và đang cất giữ cẩn thận.

Sau đó chúng tôi xuống từng hàng ghế, xem phản ứng của mọi người thế nào. Hầu như ai cũng có hình, ai cũng trố mắt ngạc nhiên kinh ngạc. Có người tay cầm cánh hoa Hồng có hình Chúa hay Đức Mẹ mà run run cảm động. Chúng tôi đi khắp các hàng ghế và ghi nhận tất cả các hình ảnh đó nằm trong bảy, tám hình giống nhau, Nhiều người trước đây đã đi dự nên có kinh nghiệm, họ mang theo những hộp kính mỏng gần giống như hộp đựng dĩa CD, họ bỏ cánh hoa Hồng có in hình vào đó cho khỏi hư, rách và nhìn lại rõ nét hơn.

Sau khi đã phân phát hết các cánh hoa Hồng, mọi người đến trước bàn thờ Đức Mẹ sốt sắng lần chuỗi, cầu nguyện và hát Thánh ca trước khi ra về.
Về nhà, anh chị Tiến nhắc chúng tôi mở trang web www.memaria.org ra xem. Trong một bài viết trên web, chi Kim Hà phụ trách “Giờ Của Mẹ” trên Radio cũng đã một lần đi dự buổi như thế này tại tư gia và chị cũng đã viết bài chia sẻ cảm nghĩ của mình: “Đây là một câu chuyện rất lạ lùng và đáng ngạc nhiên. Nếu ta không nhìn tận mắt thì sẽ không bao giờ tin được. Cha cố Khấn rất ngạc nhiên và ai cũng kinh ngạc mà không thể tưởng tượng được những gì mà Chúa và Đức Mẹ làm qua tay một người đàn ông đơn sơ như anh Carmelo Cortez. Tạ Ơn Chúa và Đức Mẹ!”.

Bên dưới là những hình ảnh hiện rõ trên những cánh hoa hồng
ảnh: Thái Đắc Nhã/Viễn Đông






Cũng như chị Kim Hà, chúng tôi chỉ tường thuật theo những gì mắt thấy, tai nghe và luôn tuân theo sự hướng dẫn của Giáo Hội, không tự khẳng định đây là một phép lạ trước khi có phán quyết của Giáo Hội.

24/9/09

ĐỨC MẸ HIỆN RA TẠI BANNEUX (NƯỚC BỈ)

Cách đây đúng 75 năm, tại một làng nhỏ Banneux ở vương quốc Bỉ, Đức Mẹ MARIA đã hiện ra 8 lần với một bé gái 12 tuổi, tên Mariette Beco.

Lần hiện ra đầu tiên xảy ra vào Chúa Nhật 15-1-1933.

7 giờ tối hôm đó, Mariette đứng chống tay nơi cửa sổ nhìn ra đường, trông ngóng đứa em trai 10 tuổi, đi vắng từ trưa chưa thấy về. Bỗng cô bé trông thấy một người đàn bà sáng láng, đứng bất động trong vườn, cách cô bé chừng vài thước.

Mariette cảm thấy sợ hãi. Cô bé chạy đến với thân mẫu và kể cho mẹ nghe. Bà mẹ nghĩ ngay: ”Chắc là con nít sợ hão sợ huyền đây!” Nghĩ thế, nhưng bà cũng theo con đến bên cửa sổ. Nhìn ra, bà cũng trông thấy, nhưng không rõ như Mariette. Bà chỉ trông thấy một vật mầu trắng sáng láng, giống như hình người phủ kín bằng tấm vải, đầu hơi nghiêng về bên trái. Bà nói với con:

- Mụ phù thủy đó con à!

Mariette cãi lại:

- Không phải vậy đâu Má! Đây là Đức Mẹ MARIA thật đó! Đức Mẹ mĩm cười với con mà! Đức Mẹ đẹp quá chừng mà!

Mariette không còn sợ hãi nữa. Cô bé lấy tràng hạt Mân Côi ra lần. Vừa lần hạt cô bé vừa chiêm ngưỡng dung nhan tuyệt đẹp của Đức Mẹ MARIA. Đức Mẹ vẫy tay gọi và cô bé hiểu là Đức Mẹ muốn gặp mình. Cô bé liền rời cửa sổ và định mở cửa đi ra vườn. Nhưng bà mẹ ngăn cản không cho con đi và khóa cửa ra vào lại. Khi Mariette trở lại bên cửa sổ, thì Bà Đẹp đã biến mất.

Ba ngày sau - thứ tư 18-1-1933 - cũng đúng 7 giờ tối, như có sức mạnh bên trong thúc đẩy, Mariette bước ra khỏi nhà. Cô bé quỳ gối trên lối đi dẫn ra vườn và lấy tràng hạt Mân Côi ra lần. Bỗng Đức Mẹ MARIA hiện ra và tiến đến gần cô bé. Đầu Đức Mẹ phủ voan trắng và mặc áo chùng trắng có dây xanh thắt ngang lưng. Tay Đức Mẹ mang tràng chuỗi cũng màu trắng. . Mariette vừa lần hạt Mân Côi vừa chiêm ngắm Đức Mẹ. Cô bé thấy đôi môi Đức Mẹ mấp máy như đang đọc kinh.

Cuộc cầu nguyện trong thinh lặng kéo dài 20 phút. Sau đó Đức Mẹ ra hiệu cho Mariette theo Đức Mẹ tiến về con suối gần đó. Đến nơi, Đức Mẹ bảo cô bé nhúng tay vào nước. Không do dự, Mariette vâng lời làm theo. Xong, Đức Mẹ MARIA giơ tay chỉ con suối và nói với cô bé:

- Giòng suối này dành riêng cho Mẹ. Thôi, Mẹ chào con!

Nói xong, Đức Mẹ biến đi.

Ngày hôm sau, cũng vào lúc 7 giờ tối, Mariette ra vườn và quỳ gối cầu nguyện. Đang cầu nguyện thì cô bé trông thấy Đức Mẹ hiện ra. Lần này, Mariette cất tiếng hỏi:

- Thưa Bà Đẹp, Bà là ai?

Bà Đẹp trả lời:

- Ta là Đức Nữ Trinh của Người Nghèo.

Mariette lại hỏi:

- Hôm qua, Bà bảo con suối này dành riêng cho Bà. Câu nói này có nghĩa là gì thưa Bà?

Bà Đẹp giải thích:

- Con suối này dành riêng cho mọi dân nước, để thoa dịu nỗi khổ của các bệnh nhân.

Mariette thưa:

- Con xin cám ơn Bà.

Đức Mẹ MARIA dịu dàng nói thêm:

- Mẹ sẽ cầu nguyện cho con. Thôi chào con.

Ngày hôm sau nữa, tức thứ sáu 20-1-1933, Đức Mẹ lại hiện ra với Mariette. Lần này cô bé hỏi:

- Thưa Bà, Bà muốn gì?

Đức Mẹ đáp:

- Mẹ muốn người ta xây cất một nhà nguyện nhỏ tại đây.

Những lần hiện ra sau đó, Đức Mẹ MARIA lập đi lập lại với cô bé:

- Các con hãy cầu nguyện thật nhiều!

Lần hiện ra thứ 8 và cũng là lần hiện ra sau cùng, xảy ra vào ngày thứ năm 2-3-1933. Lần hiện ra sau cùng này, khuôn mặt Đức Mẹ MARIA thật nghiêm trọng và thật buồn. Đức Mẹ không mĩm cười nữa. Đức Mẹ nói với Mariette:

- Ta là Mẹ Đấng Cứu Thế, là Mẹ THIÊN CHÚA.

Ngừng một lát, Đức Mẹ lập lại lần cuối cùng mệnh lệnh quan trọng:

- Các con hãy cầu nguyện thật nhiều!

Sau đó, Đức Mẹ đặt tay trên đầu chúc lành cho cô bé, vẽ hình Thánh Giá trên trán cô bé và từ biệt cô bé. Mariette sấp mình sát đất và nức nở khóc.

16 năm sau, ngày 22-8-1949, Đức Cha Louis-Joseph Kerkhofs, Giám Mục giáo phận Liège, chính thức nhìn nhận các cuộc Đức Mẹ MARIA hiện ra với cô bé Mariette Beco tại Banneux là những cuộc hiện ra thật. Từ đó vang vọng lời chúc tụng: ”Vinh danh Đức Nữ Trinh của Người Nghèo và chúc tụng Đấng gửi Đức Nữ Trinh đến với chúng con”.

Năm nay - 2008 - nhân kỷ niệm 75 năm Đức Mẹ MARIA hiện ra tại Banneux, hôm thứ ba 15-1-2008, Đức Cha Aloys Jousten, Giám Mục giáo phận Liège sở tại và Đức Cha André Mutien Leonard, Giám Mục giáo phận Namur đã chủ sự Thánh Lễ khai mạc thời kỳ kỷ niệm kéo dài 9 tháng.

... Có điềm lớn xuất hiện trên trời: một người Phụ Nữ, mình khoác mặt trời, chân đạp mặt trăng, và đầu đội triều thiên 12 ngôi sao. Bà có thai, đang kêu la đau đớn và quằn quại vì sắp sinh con. Lại có điềm khác xuất hiện trên trời: đó là một con rồng lớn, đỏ như lửa, có 7 đầu và 10 sừng, trên 7 đầu đều có vương miện. Đuôi nó quét hết một phần ba các ngôi sao trên trời mà quăng xuống đất. Rồi con rồng đứng chực sẵn trước mặt người Phụ Nữ sắp sinh con, để khi Bà sinh xong là nó nuốt ngay Con Bà. Bà đã sinh được một Người Con, một Người Con Trai, Người Con này sẽ dùng trượng sắt mà chăn dắt muôn dân. Con Bà được đưa ngay lên THIÊN CHÚA, lên tận ngai của Người. Còn người Phụ Nữ thì trốn vào sa mạc; tại đó THIÊN CHÚA đã dọn sẵn cho Bà một chỗ ở, để Bà được nuôi dưỡng ở đó, trong vòng một ngàn hai trăm sáu mươi ngày.

Bấy giờ có giao chiến trên Trời: Thánh Thiên Thần Micae và các Thiên Thần của Người giao chiến với con Mãng-Xà. Con Mãng-Xà cùng các thiên thần của nó cũng giao chiến. Nhưng nó không đủ sức thắng được, và cả bọn không còn chỗ trên Trời nữa. Con Mãng-Xà bị tống ra, đó là Con Rắn xưa, mà người ta gọi là ma quỷ hay Satan, tên chuyên mê hoặc toàn thể thiên hạ. Nó bị tống xuống đất, và các thiên thần của nó cũng bị tống xuống với nó. Và tôi nghe có tiếng hô to trên Trời:

”THIÊN CHÚA chúng ta thờ giờ đây ban ơn cứu độ,

giờ đây biểu dương uy lực với vương quyền, và Đức KITÔ của Người,

giờ đây cũng biểu dương quyền bính” (Khải Huyền 12, 1-10).

(”STELLA MARIS”, Mensuel d'informations religieuses, Avril/1993, trang 8-10)
Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

THỰC HIỆN LỜI HỨA

“Cuối cùng, Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ sẽ thắng” đúng như lời Mẹ nói đã thực sự hoàn toàn ứng nghiệm.

Trước khi khẳng định điều này, Mẹ đã “yêu cầu” Nước Nga phải được Đức Thánh Cha hợp cùng các giám mục trên thế giới dâng hiến cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ. Cũng trước khi khẳng định điều này, chính Mẹ cũng nói đến những sự kiện “bằng không”.

Thế mà, không biết vì sao điều “yêu Cầu” của Mẹ bề ngoài xem ra quá dễ dàng như thế mà mãi đến gần 67 năm sau, nếu kể từ ngày Mẹ tiết lộ “yêu cầu” của Mẹ với ba Thiếu Nhi ở Fatima (13/7/1917-25/3/1984), hay mãi đến gần 53 năm sau, nếu kể từ ngày Đức Mẹ chỉ cách thực hiện “yêu cầu” của Mẹ qua chị Lucia ở Tuy theo ý muốn của Thiên Chúa (13/6/1929-25/3/1984), hoặc mãi đến 44 năm sau, nêu kể từ ngày chị Lucia viết thư trình lên Đức Thánh Cha Piô XII (24/10/1940-25/3/1984), mới được đáp ứng thỏa đáng. Trong khoảng thời gian "yêu cầu" của Mẹ này, biết bao nhiêu tai họa khủng khiếp đã gây ra cho thế giới nói chung, cho Giáo Hội và các nước cộng sản nói riêng. Nhưng, lời tiên báo cuối cùng của Mẹ không thể nào không xẩy ra, đó là việc “Đức Thánh Cha sẽ hiến dâng Nước Nga cho Mẹ, Nước Nga sẽ trở lại, và thế giới sẽ
được hưởng một thời gian hòa bình”.

Thật vậy:

- Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II đã dâng hiến Nước Nga và chung thế giới cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ ngày 25-3-1984.

- Nước Nga đã trở lại ngày 25-12-1991, khi tổng thống Liên Bang Sô Viết, người đã chính thức yết kiến Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II vào ngày 1-12-1989, từ chức sau khi hoàn tất sứ mệnh “cải tổ” (Perestrojka) của mình.

- Thế giới sẽ được hưởng một thời gian hòa bình. Chiến tranh Trung Đông, có thể nói là một cuộc Đại Chiến nhỏ, chỉ xẩy ra từ ngày 2/8/1990 đến 27/2/1991, và có lẽ trong “một thời gian” thế giới sẽ không còn lo hiểm họa chiến tranh do “Nước Nga gây ra” (FILOW:162) nữa. Hội Nghị Hòa Bình Trung Đông giữa Do Thái và khối Ả Rập bắt đầu mở màn ở Ma-Ní nước Tây Ban Nha ngày 30/10/1991. Bắc Hàn và Nam Hàn đã ký kết hòa giải ngày 13-12-1992 trước khi bước đến cảnh thống nhất đất nước như Đông Đức và Tây Đức. Hội đồng Giám Mục Âu Châu họp tại Rôma từ ngày 28/11/1991 đến ngày 14/12/1991, với chủ đề “Chứng nhân cho Chúa Kitô, Đấng đã giải cứu chúng ta” (CI v3. 1:2), nhằm vào việc tái thiết Âu Châu, nơi đã chiếu giãi văn minh loài người và Kitô giáo ra khắp thế giới, nhất là trong thời kỳ từ năm 1488 đến năm 1611, thời kỳ của phong trào thám hiểm và khám phá các miền đất mới trên thế giới ngoài Âu Châu. Sau cùng, rồi cũng qua đi chiến tranh hiện diễn ra tại Nam Tư (khi những giòng chữ này đang được viết), cũng như cộng sản Việt Nam, Trung Hoa và Cuba đang cố bám cho khỏi chết đuối trong giòng lịch sử của một "trật tự mới" mà cả thế giới hậu cộng sản tự nhiên hướng đến và chiều theo.

Fhải chăng, Đức Mẹ có ý hiện ra ở Fatima cho trùng hợp với sự kiện cộng sản hình thành chế độ tại Nga Sô, bởi thế, trên thực tế, sứ điệp và công cuộc của Fatima bề ngoài hầu như chỉ gắn liền với vận mệnh của riêng nước Nga (được cứu vớt) và chung thế giới (được hòa bình).

Trước hết, phải kể đến “yêu Cầu” của Đức Mẹ về việc Đức Thánh Cha cần hợp với tất cả các giám mục trên thế giới để hiến dâng Nước Nga cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội của Mẹ, một trong những điều khẩn thiết nhất, kéo dài trên dưới cả nửa thế kỷ mới thực hiện được.

Sau đó là việc thành lập Phong Trào Đạo Binh Xanh từ năm 1947, năm Thánh Tượng Mẹ Fatima thánh du nước Mỹ, một phong trào được cha sở của giáo xứ Saint Mary ở Plainfield thuộc tiểu bang New Jersey là linh mục Harold V.Colgan phát động qua câu nói: “Trong giáo xứ này, chúng ta sẽ là Đạo Binh Xanh của Đức Mẹ để chống lại làn sóng đỏ vô thần” (LS:259), và cũng là một phong trào mà cha Piô Năm Dấu đã nói: “Nước Nga sẽ trở lại khi nào số quân Đạo Binh Xanh cân bằng số người cộng Sản” (FTGS:136). Ngày 8-5-1950, Năm Thánh, với tờ nguyệt san Linh Hồn đầu tiên do Đạo Binh Xanh phát hành đặt trên bàn, Đức Thánh Cha Piô XII đã gặp riêng vị linh mục khởi xướng phong trào này với huấn từ như sau: “Là một nhà lãnh đạo thế giới chống cộng, Ta hân hoan ban phép lành cho con và tất cả mọi phần tử Đạo Binh Xanh”

Nếu Thời Điểm Fatima có liên quan chặt chẽ với diễn biến của Nước Nga như thế, thì, phải chăng, một khi Nước Nga trở lại, Thời Điểm Fatima tự nhiên cũng chấm dứt? Tôi không nghĩ như thế. Trái lại, theo tôi, sau khi Nước Nga trở lại mới chính là tột đỉnh của Thời Điểm Fatima, hay mới chính là lúc Thời Điểm Fatima đến hồi quyết liệt nhất.

Đúng thế, Nước Nga nói riêng và thế giới nói chung chỉ là trường hợp để Thiên Chúa dùng trong việc “làm cho Mẹ được nhận biết và yêu mến” mà thôi.

Trong việc cứu chuộc loài người hư đi vì nguyên tội, Thiên Chúa thật ra cũng chẳng cần phải “hóa thành nhục thể” (Gioan 1:14) và phải tử giá mới cứu được họ, nhưng sở dĩ Ngài muốn dùng đường lối này là để con người có thể dễ dàng nhận biết và kính mến Ngài hơn. Cũng thế, để làm cho Nước Nga trở lại và ban hòa bình cho thế giới, theo thượng trí vô cùng khôn ngoan của mình, Thiên Chúa đã không dùng một cách thức nào khác ngoài duy có một điều, đó là Đức Thánh Cha hợp với các đức giám mục trên thế giới trong việc dâng hiến Nước Nga cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria, nhờ đó, thế giới sẽ nhận biết Mẹ, Đấng đã thực sự hiện ra ở Fatima và, vì lo cho số phận của con cái mình, Mẹ đã chỉ bảo cho chúng những gì cần phải làm theo để được giải cứu khỏi tai họa của thời đại là nạn cộng sản vô thần.

Ngay chính việc Đức Thánh Cha hợp cùng các giám mục trên thế giới hiến dâng nước Nga cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ, cũng là việc của Mẹ làm. “Cuối cùng Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ sẽ thắng”, như Mẹ quả quyết và báo trước, là ở chỗ này.

Bởi vì, hòa bình thế giới lệ thuộc vào việc nước Nga trở lại, (bằng không, như Mẹ nói, nước Nga chẳng những sẽ gieo rắc lầm lạc mà còn gây chiến tranh nữa). Nước Nga trở lại lại lệ thuộc vào việc Đức Thánh Cha có đáp ứng đúng “yêu cầu” của Mẹ hay không. Thế mà, dù “yêu cầu” của Mẹ đã được sứ giả của Mẹ là chị Lucia đệ trình lên các Đức Giáo Hoàng, một “yêu cầu”, tự bản chất, quá ư là dễ dàng và đơn giản, “yêu cầu” của Mẹ, vì một lý do nào đó, vẫn chưa được thực hiện, hoặc có thực hiện song vẫn chưa đúng như ý muốn của Chúa.

Phải chăng, Sự Lạ Fatima, dù đã được giáo quyền địa phương chính thức xác nhận và công bố qua văn thư mục vụ Sự Quan Phòng Thần Linh là “đáng tin những thị kiến của ba trẻ” chăn chiên ở Cova da Iria, giáo xứ Fatima, địa phận Leiria, từ ngày 13/5/1917, và chính thức ban phép tôn sùng Đức Mẹ Fatima” (FT:70), vẫn còn trong vòng vấn nạn, như Đức Thánh Cha Piô XII đã nói với vị khởi xướng phong trào Đạo Binh Xanh ngày 8-5-1950: “Giờ đây đã hết thời vấn nạn về Fatima. Đây là lúc hành động” Vậy, Mẹ Maria đã làm sao để giải quyết “vấn nạn” về Fatima, để các Đức Giáo Hoàng có thể đáp ứng “yêu cầu” của Mẹ?

Việc Mẹ là làm sao cho chính các Đức Giáo Hoàng cũng nhận biết rằng Mẹ thực sự hiện diện và hoạt động tại Fatima.

Trước hết, Mẹ dùng chính ngày tấn phong giám mục của Đức Thánh Cha Piô XII để hiện ra ở Fatima, và, sau đó, Mẹ đã cứu sống Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II vào chính ngày 13/5, ngày Mẹ hiện ra lần đầu tiên ở Fatima. Sau đây là những lời thú nhận của hai vị Giáo Hoàng được Mẹ trực tiếp nhúng tay vào đời tư của các Ngài, một vị đã khởi sự (ĐTC Piô XII) và một vị đã hoàn tất (ĐTC Gioan-Phaolô II) việc dâng hiến nước Nga cho Trái Tim Mẹ, chứng tỏ các Ngài đã nhận biết Mẹ và đáp ứng “yêu cầu” của Mẹ.

Đức Thánh Cha Piô XII, trong dịp ban huấn từ cho một phái đoàn hành hương Bồ Đào Nha ngày 4/6/1951, phái đoàn đã dâng cúng bàn thờ Đức Mẹ Fatima cho tân vương cung thánh đường được xây dịp kỷ niệm lễ bạc làm giám mục của Ngài và được cung hiến cho thánh Eugene, quan thày của Ngài, đã tỏ ra nhận biết việc Mẹ làm nơi Ngài như sau:

“Các con muốn cử hành để đồng tưởng nhớ đến sự trùng hợp thiên định việc Ta được phong lên hàng giáo phẩm, cao qúi thay ước vọng con cái tôn kính của các con... Vào ngày hôm ấy, cùng một giờ, ở đồi Fatima, vị Nữ Vương bạch y rất Thánh Mân Côi hiện ra lần đầu tiên, như thể Người Mẹ dấu yêu trên hết mọi sự muốn cho Ta hiểu rằng trong những thời gian bão tố của giáo triều của Ta, trong cơn khủng hoảng nhất của lịch sử thế giới, Ta sẽ luôn có sự hỗ trợ từ mẫu của Người Nữ Cao Cả chiến thắng mọi trận chiến của Thiên Chúa, để bao che Ta, để bảo vệ Ta và để dẫn dắt Ta”

Kết quả là, ngay năm sau, vào ngày 7/7/1952, Đức Thánh Cha đã chính thức và r ràng hiến dâng Nước Nga cho Trái Tim Vô Nhiễm Mẹ qua tông thư gửi cho nhân dân Nga Sô.

Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II, trong dịp hành hương Fatima, 13/5/1982, để tạ ơn Đức Mẹ đã cứu mạng của Ngài đúng một năm về trước, 13/5/1981, đã nói lên sự nhận biết của Ngài về việc Mẹ làm nơi Ngài như sau:

“Vậy Ta đến đây hôm nay là vì cũng trong chính ngày này năm trước, tại quảng trường thánh Phêrô ở Rôma, xẩy ra việc ám sát Giáo hoàng, trùng hợp một cách lạ lùng với ngày kỷ niệm hiện ra tại Fatima hôm 13/5/1917. Ta như nhận thấy rằng trong sự trùng hợp về ngày giờ này một lời kêu gọi đặc biệt đến nơi đây. Bởi thế, Ta đến đây để tạ ơn Chúa Quan Phòng ở chốn này việc mà Mẹ Thiên Chúa đã lợi dụng theo cách thế đặc biệt (của Mẹ)” (FT:245).

Kết quả là, chính ngày này, sau thánh lễ kéo dài 3 tiếng đồng hồ, ngài đã dâng chung thế giới và riêng nước Nga cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ.

Tuy nhiên, Mẹ chẳng những phải được nhận biết, còn phải được yêu mến nữa. Đó là sứ mạng mà Chúa Giêsu đã trao phó cho chị Lucia, như Đức Mẹ đã nói cho chị biết vào lần hiện ra thứ hai, 13-6-1917. Và, theo tôi, đó cũng mới là mục đích chính của việc Đức Mẹ hiện ra ở Fatima. Nói cách khác, Đức Mẹ hiện ra ở Fatima là để làm cho nhân loại nói chung và con cái Mẹ nói riêng nhận biết và yêu mến Mẹ.

Hiện tượng Đức Mẹ làm cho mặt trời nhẩy múa vào ngày 13-10-1917, như Đức Mẹ nói, là “để cho mọi người tin”, nhất là những người không tin Mẹ bấy giờ như gia đình và người làng của ba Thiếu Nhi Fatima, ông thị trưởng, cha sở nói riêng và những người tò mò muốn biết thật hư ra sao nói chung, đã có mặt tại Cova da Iria.

Cũng thế, hiện tượng Nước Nga tự động trở lại một cách lạ lùng trước mắt toàn thể thế giới vào ngày 25-12-1991, chính là việc Đức Mẹ làm “để cho mọi người tin”, những tâm hồn thiện chí nói chung và con cái Mẹ nói riêng.

Để rồi, sau khi đã làm cho chung nhân loại và riêng con cái Mẹ tin vào Mẹ, Mẹ sẽ làm cho họ yêu mến Mẹ nữa. Theo tôi, “thế giới sẽ được hưởng một thời gian hòa bình” chính là thời gian Thiên Chúa dùng để làm cho Mẹ được yêu mến, đúng như ý của Ngài là “muốn thiết lập lòng sùng kính Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ trên khắp thế Giới”.

Nhưng,

Tại sao, không vào thời điểm nào khác, mà lại vào thời điểm của thế kỷ 20 này, Thiên Chúa mới, qua 3 Thiếu Nhi Fatima, tỏ ra một cách r ràng là Ngài muốn “làm cho Mẹ được nhận biết và yêu mến”, “muốn thiết lập lòng tôn sùng Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội của Mẹ”?

Những chương còn lại của phần nhất sau đây sẽ là câu trả lời dứt khoát và rõ ràng cho vấn nạn này.

ĐÁP ỨNG YÊU CẦU

Sau đây là diễn tiến việc Giáo Hội đáp ứng "yêu cầu" mà Mẹ Maria đã cho chung 3 Thiếu Nhi Fatima biết vào ngày 13/7/1917 và cho riêng chị Lucia biết vào ngày 13/6/1929.

DƯỚI GIÁO TRIỀU ĐỨC THÁNH CHA PIÔ XI (6/2/1922-2/10/1939)

Điều “yêu cầu” của Mẹ Maria đã được chị Lucia kính đệ lên Đức Thánh Cha Piô XI. Trong thư gửi lên Đức Thánh Cha Piô XII ngày 24-10-1940, chị đã đề cập đến việc này:

“Đức Thánh Cha rất kính mến, con xin phép lập lại một điều khẩn cầu đã được trình lên Đức Thánh Cha mấy lần trước, cũng như đã được trình lên Đức Thánh Cha Piô XI” (LS:247).

Phần Đức Thánh Cha XI, trong thư gửi cho đức hồng y Pompili là đại diện của tòa thánh Rôma, Ngài viết:

“Ta cảm thấy hết sức xúc động khi nghĩ tới những tội lỗi dữ tợn và phạm thánh đến Thiên Chúa và các linh hồn được tái diễn trầm trọng hơn mỗi ngày nơi vô số người ở nước Nga... cần phải có một sự đền tạ trọng thể và phổ quát hơn. Bởi thế, Ta muốn, với hết khả năng của mình, thực hiện một việc đền tạ cho tất cả những hành động phạm thánh này, đồng thời kêu gọi tín hữu khắp nơi trên thế giới thực hiện việc đền tạ này vào ngày lễ thánh Giuse, 19/3/1930... Sau khi đã xin Thánh Tâm Chúa Giêsu tha thứ và thương đến các nạn nhân và cả những kẻ sát nhân, Ta cầu khẩn Đức Maria Đồng Trinh Vô Nhiễm Thánh Thiện, Mẹ của Thiên Chúa...”

Nước Nga chưa được hiến dâng cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ. Tức “yêu cầu” của Mẹ chưa được thực hiện. Do đó, sự kiện “bằng không, Nước Nga sẽ...” đã thực sự xẩy ra, như trong thông điệp Divini Redemptoris ban hành ngày 19/3/1937, Đức Thánh Cha đã phải viết:

“Dù cộng sản chưa có đủ thời gian để ra tay hết cỡ, thương ôi, chứng kiến nước Tây Ban Nha yêu qúi, Ta đã thấy được mức độ tấn công tàn bạo của nó. Chẳng những nhà thờ này, thánh đường kia, đan viện nọ bị chiếm cứ, mà còn bị hủy hoại nữa. Mọi vết tích Kitô giáo đều bị tiêu hủy... Cộng sản hung dữ đến nỗi giết chết các giám mục bất kể là ai, hàng ngàn linh mục và tu sĩ nam nữ... Đa số nạn nhân của nó là giáo dân ở mọi hoàn cảnh và mọi giai cấp. Cho đến lúc này, từng đoàn lũ giáo dân đang bị giết chết hầu như hằng ngày chỉ vì họ là những Kitô hữu tốt hay ít nhất vì họ đã chống lại cộng sản vô thần...” (AC:20).

Đoạn văn trên đây đã nói lên hai trong ba sự kiện “bằng không” mà Đức Mẹ đã báo trước, đó là: “kẻ lành sẽ tử đạo, Đức Thánh Cha sẽ chịu nhiều đau Khổ”. (Sự kiện Đức Thánh Cha chịu nhiều đau khổ tỏ tường
nhất phải kể đến vụ ám sát hụt, như dư luận nghi ngờ cho là do âm mưu của KGB, điệp vụ Nga Sô, vào ngày 13/5/1981 sau này đối với Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II).

Nước Tây Ban Nha mới thử nếm mùi cộng sản trong thời kỳ nội chiến 1936 -1939, như Đức Thánh Cha đề cập đến ở trên, mà như thế, các nước bị cộng sản thống trị hay bị sát nhập vào với Liên Sô thì thế nào. Thật vậy, Hồng quân Sô Viết đã chiếm phía đông của Ba-Lan ngày 17 -9-1939, đa số phần đất của Phần-Lan vào tháng 3-1940, phần đất của Romania vào tháng 6-1940, và trọn ba nước ở vùng Baltic là Estonia, Latvia và Lithunia vào tháng 8-1940. “Một số nước sẽ bị tiêu diệt”, như Đức Mẹ tiên báo sự kiện “bằng không” thứ ba, phải chăng là chính ba nước thuộc vùng Baltic này, là những nước đã bị hoàn toàn sát nhập vào Liên Bang Sô Viết, chứ không phải bị đô hộ hay bảo hộ như chính sách thực dân đế quốc của Pháp đối với Việt Nam từ hậu bán thế kỷ 19 đến bán thế kỷ 20.

DƯỚI GIÁO TRIỀU ĐỨC THÁNH CHA PIÔ XII (2/3/1939-9/10/1958)

Điều “yêu cầu” của Mẹ Maria đã được chị Lucia chính thức và trực tiếp trình lên Đức Thánh Cha Piô XII hai ngày 24-10-1940. Nội dung của bức thư này, chị trình cho Đức Thánh Cha biết Bí Mật Fatima thứ hai được Đức Mẹ tiết lộ ngày 13-7-1917 ở Fatima, việc giữ năm Thứ Bảy Đầu Tháng liên tiếp được Đức Mẹ xin ngày 10/12/1925 ở Pontevedra, và việc Đức Thánh Cha hợp cùng các giám mục trên thế giới hiến dâng Nước Nga cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội của Mẹ được Mẹ dạy ngày 13/6/1929 tại Tuy.

Đức Thánh Cha Piô XII, vị Giáo Hoàng tiền định đã được thụ phong Giám Mục vào chính ngày giờ Đức Mẹ hiện ra ở Fatima lần thứ nhất, 13-5-1917, cũng là vị giáo hoàng đã được thấy hiện tượng mặt trời nhẩy múa bốn lần trong bốn ngày, ngày 30 và 31 tháng 10 và ngày 1 và 8 tháng 11, dịp Ngài tuyên bố tín điều Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời ngày 1-11-1950, đã thực hiện “yêu cầu” này của Mẹ hai lần, một lần vào ngày 31-10-1942, ngày kết thúc mừng 25 năm Đức Mẹ hiện ra ở Fatima, và một lần vào ngày 7-7-1952, lễ hai thánh Cyrilô và Mêthôđiô, tông đồ của sắc dân Slavs, mà Nga là một trong ba nhóm (thuộc về nhóm ở phía đông).

Lần thứ nhất, qua vô tuyến truyền thanh, Đức Thánh Cha Piô XII đã gửi đến quốc dân Bồ Đào Nha điệp văn của Ngài, trong đó, có đoạn sau đây:

“Chúng con trông cậy, chúng con hiến dâng, chúng con phó thác cho Mẹ, cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội của Mẹ, trong giờ phút nguy biến của lịch sử nhân loại này, chẳng những Hội Thánh, Nhiệm Thể của Chúa Giêsu Con Mẹ, đang đổ máu và đau khổ ở nhiều nơi bằng nhiều cách, mà còn cả thế giới đang bị rã rời vì những bất hòa nguy tử, đang bừng bừng lên lửa thù hận, trở nên nạn nhân của chính tội lỗi của mình”

Lần thứ hai, qua Tông Thư Sacro Vergente Anno gửi quốc dân Nga Sô, Ngài viết:

“Để cho lời cầu nguyện thiết tha của chúng tôi và của qúi vị dễ được chấp nhận hơn, và để chứng tỏ cho qúi vị thấy lòng ưu ái của chúng tôi đối với qúi vị, giống như mấy năm trước chúng tôi đã hiến dâng cả loài người cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội của Mẹ Đồng Trinh Maria, Mẹ của Thiên Chúa, vậy giờ đây, chúng tôi hiến dâng, và, một cách hết sức đặc biệt, chúng tôi phó thác tất cả nhân dân nước Nga cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội của Mẹ, với niềm hy vọng chắc chắn rằng, chẳng bao lâu, nhờ sự bầu cử toàn năng của Rất Thánh Trinh Nữ Maria, ước vọng của chúng tôi cũng như của qúi vị và của tất cả những người lành sẽ được hoàn toàn nên trọn, là một nền hòa bình đích thực, hòa hợp huynh đệ, và tự do cho tất cả mọi người, nhất là cho Giáo Hội

Lần thứ nhất, Nước Nga chưa được hiến dâng cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội của Đức Mẹ. Lần thứ hai, nước Nga được hiến dâng cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ song không có sự tham dự của toàn thể các giám mục trên thế giới. Nghĩa là, cả hai lần hiến dâng này đều chưa hoàn toàn đúng như ý muốn của Thiên Chúa. Do đó, sự kiện “Bằng không, Nước Nga sẽ...” đã xẩy ra. Chị Lucia đã tóm tắt sự kiện “bằng không” này khi nói với đức giám mục Gurza như sau:

“Chúa nhân lành đã tỏ cho con biết là Ngài hài lòng về việc làm này (việc hiến dâng lần thứ nhất) của Đức Thánh Cha cùng với một vài giám mục. Mặc dầu nó chưa được hoàn toàn đúng theo ước muốn của Ngài, song Ngài hứa sẽ làm cho chiến tranh sớm chấm dứt. Còn việc trở lại của nước Nga thì bây giờ chưa xẩy ra”

Về việc “chiến tranh sớm chấm Dứt”, quả thật, ngày 2/2/1943, quân Đức đã bắt đầu kiệt quệ và trước hết đầu hàng ở Stalingrad. Ngày 13/5/1943 phe trục đầu hàng ở Bắc Phi. Ngày 10-7-1943, Đồng minh chiếm Sicily nước Ý. Ngày 6-6-1944, Đồng Minh chiếm lại miền Bắc nước Pháp. Ngày 19-20/6/1944, hải quân Mỹ đánh bại Nhật ở vùng biển Phi-Luật-Tân. Ngày 30-4-1945, Hitler tự tử ở Bá-Linh. Ngày 6-8-1945, Nhật bị một trái bom nguyên tử của Mỹ ở Hiroshima. Ngày 9-8-1945, Nhật bị một trái bom nguyên tử nữa của Mỹ ở Nagasaki.

Về “việc trở lại của nước Nga thì chưa xẩy ra”, nên, Nước Nga đã “gieo rắc lầm lạc trên khắp thế giới”: Năm 1948, đến các nước Bulgaria, Czechoslovakia và Bắc Hàn; năm 1949, đến Hung Gia Lợi, Trung Hoa và Đông Đức; năm 1950, Bắc Hàn bắt đầu tấn công Nam Hàn; năm 1954, đến các nước Đông Dương gồm Việt Nam, Lào và Cam- Bốt; năm 1957, Bắc Việt Nam bắt đầu xâm lăng Nam Việt Nam.

DƯỚI GIÁO TRIỀU ĐỨC THÁNH CHA GIOAN XXIII (28/10/1958-3/6/1963)

Điều “yêu cầu” của Mẹ Maria, theo sử liệu, không được chị Lucia trực tiếp trình lên Đức Thánh Cha Gioan XXIII, như chị đã làm việc này với hai vị tiền nhiệm của ngài là Đức Thánh Cha Piô XI và Piô XII. Tuy nhiên, Đức Thánh Cha Gioan XXIII là vị Giáo Hoàng đầu tiên đã đọc Bí Mật Fatima thứ ba, Bí Mật do chị Lucia viết ra trong tuần lễ từ 2-9/1/1944 ở Tuy, Bí Mật mà đức giám mục Silva nhận được ngày 17-6-1944, Bí Mật chỉ được phép công bố vào năm 1960, vì, như chị Lucia cho biết, “Đức Thánh Trinh Nữ muốn thế” (TWTAF3:472) và “bấy giờ (1960) nó sẽ rõ ràng hơn” (TWTAF3:474), Bí Mật mà Toà Thánh Rôma đã nhận được ngày 16-4-1947.

Sau khi lên ngôi, Đức Thánh Cha Gioan XXIII ngỏ ý muốn đọc Bí Mật này. Nhận được Bí Mật này ở Castelgandolfo do cha Phaolô Philiphê đem đến cho ngài hôm 17-8-1959, mấy ngày sau Đức Thánh Cha mới đọc Bí Mật với đức ông Capovilla, vị giải tội của ngài, cũng như với đức ông Paulo José Tavares, vị chuyển dịch cho ngài. Tuy nhiên, năm 1960 qua đi, Bí Mật Fatima thứ ba vẫn không được tiết lộ gì cả. Việc Đức Thánh Cha hợp với toàn thể các đức giám mục trên thế giới dâng hiến nước Nga cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria cũng không thấy động tĩnh gì, ngoại trừ sứ điệp vô tuyến truyền thanh Đức Thánh Cha đọc dịp kết thúc Đại Hội Thánh Thể Toàn Quốc ở Ý ngày 13-9- 1959, với những lời có liên quan đến Trái Tim Mẹ và việc dâng hiến như sau:

“Trong việc phục vụ Thiên Chúa và Giáo Hội của Người, lòng khiêm hạ và quảng đại đã làm cho các con tuyên xưng đức tin yêu trong ngày hôm nay, một sự tuyên xưng nhiệt liệt trong tương lai hơn trong quá khứ, sau khi các con dâng hiến nước Ý cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội của Mẹ Maria. Chúng ta tin tưởng rằng, bằng nhiệt tình biệt kính này hướng về Đức Thánh Trinh Nữ, tất cả mọi người Ý, với nhiệt tình mới, sẽ tôn kính Người là Mẹ của Nhiệm Thể Giáo Hội mà Thánh Thể là biểu hiệu và là tâm điểm, để họ bắt chước Người là mẫu gương tuyệt hảo nhất trong việc hiệp nhất với Chúa Giêsu, thủ lãnh của chúng ta; để họ tự hiệp nhất với Người trong việc dâng hiến Hy Tế Thần Linh; và để, nhờ sự can thiệp từ mẫu của Người, họ khẩn cầu cho sự hiệp nhất và bình an của Giáo Hội... Như thế, việc dâng hiến sẽ trở lên một động lực dấn thân mãnh liệt hơn trong việc thực hành các nhân đức Kitô giáo, một bảo toàn hiệu lực hơn chống lại các sự dữ đe dọa họ, và một nguồn phúc lộc ngay ở trên thế gian này như Chúa Kitô đã hứa”

Điều “yêu cầu” của Mẹ Maria, tới lúc này, vẫn chưa được thực hiện đúng như ý của Thiên Chúa. Do đó, sự kiện “bằng không” mà Mẹ Maria tiên báo vẫn cứ tiếp tục xẩy ra trên thế giới. Năm 1961, nước Cuba đã theo chủ nghĩa cộng sản dưới chế độ độc tài chuyên chính của Fidel Castro. Và, chỉ một chút nữa là thế chiến thứ ba, chiến tranh nguyên tử đã xẩy ra vào năm 1962, giữa Nga và Mỹ, khi Nikita Khrushchev, nhà cầm quyền của Cộng Sản Nga Sô bấy giờ muốn biểu dương lực lượng vũ khí tối tân của mình ở Cuba. “Nước Nga sẽ gây chiến tranh” đúng như Đức Mẹ nói là như thế.

DƯỚI GIÁO TRIỀU CỦA ĐỨC THÁNH CHA PHAOLÔ VI (21/6/1963-6/8/1978).

Điều “yêu cầu” của Mẹ Maria, ngoài Đức Thánh Cha Piô XI và XII, không một vị Giáo Hoàng nào sau này
được chị Lucia chính thức và trực tiếp trình lên bằng thư nữa. Cuộc đời của chị Lucia, một trong ba Thiếu Nhi Fatima còn sống sót, như Đức Mẹ nói, là vì “Chúa muốn dùng (chị) để làm cho Mẹ được nhận biết và yếu mến” (FILOW:195).Có thể chia cuộc đời của chị Lucia làm hai thời kỳ, thời kỳ làm tông đồ nổi và thời kỳ làm tông đồ chìm cho Mẹ.

Thời kỳ làm tông đồ nổi cho Mẹ của chị kể từ năm 1925 cho đến năm 1948 là những năm chị trở thành nữ tu của dòng thánh Đôrôthêu, chị đã chính thức làm việc tông đồ cho Mẹ, bằng việc vâng lời đức giám mục viết ra bốn Hồi Niệm liên quan đến Sự Lạ Fatima, nhất là viết ra Bí Mật Fatima thứ ba và viết các bức thư đệ trình lên Đức Thánh Cha Piô XI và XII về việc hiệp cùng các giám mục trên thế giới để hiến dâng nước Nga cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ.

Thời kỳ làm tông đồ chìm cho Mẹ của chị kể từ ngày 25-3-1948 là ngày chị được phép đặc biệt của Đức Thánh Cha Piô XII chuyển từ dòng thánh Đôrôthêô sang dòng kín Carmêlô của thánh Têrêsa, thời kỳ chị không còn cần phải tiết lộ thêm gì nữa về Sự Lạ Fatima, thời kỳ mà ngày 12/4/1970 chị đã viết cho một người bạn của chị là Dona Maria Teresa da Cunha như sau:

“Tôi phải sống trong thinh lặng, nguyện cầu và thống hối. Có như vậy, tôi mới có thể giúp chị hơn bao giờ hết. Mọi việc tông đồ cần phải lấy điều này làm nền tảng; và đó là phần mà Chúa đã dành cho tôi: cầu nguyện và tự hy hiến cho những ai chiến đấu và hoạt động trong vườn nho của Chúa và cho Nước Ngài rộng mở...”

Chính trong thời gian này Đức Mẹ lại đưa chị ra ánh sáng, qua Đức Thánh Cha Phaolô VI vào ngày 13-5-1967 cũng như qua Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II vào ngày 13-5-1982 và 13/5/1991.

(Sự kiện 2 vị Giáo Hoàng đích thân đến linh địa Fatima, trong khi các nơi Đức Mẹ hiện ra khác cũng được Giáo Hội chính thức công nhận, như Lộ Đức, La Salette, Guađalup v.v. lại không được diễm phúc này, không phải là một sự xác nhận hùng hồn nhất của Giáo Hội về sự chân thật linh thiêng rất hệ trọng nơi những gì Đức Mẹ nói và làm tại Fatima này hay sao!)

Ngày 13-5-1967, Đức Thánh Cha Phaolô VI đã gửi đến Fatima Hoa Hồng Bằng Vàng với hàng chữ: “Phaolô VI, khẩn xin Mẹ Thiên Chúa bảo hộ Giáo Hội, xin dâng Hoa Hồng Bằng Vàng cho Đền Thánh Fatima, ngày 13-5-1967” (TYP:121), và chính Ngài cũng đã có mặt ở đó với những lời huấn từ sau đây:

“Hỡi các con yêu qúi, trong lúc này đây, Ta cũng muốn hợp với các con dâng lên Mẹ Thiên Chúa cũng là Mẹ của chúng ta lời nguyện cầu để xin Mẹ ghé mặt từ mẫu xuống trên thế giới còn quá cách xa Người Con Thần Linh của Mẹ, và để xin cho tất cả mọi người được hoàn toàn và thực sự hòa giải với Thiên Chúa”.

Đức Thánh Cha Phaolô VI cũng là vị Giáo Hoàng đã chính thức tuyên xưng và công bố Mẹ Maria là “Mẹ Giáo Hội” vào buổi kết thúc kỳ họp thứ ba, ngày 21-11-1964, của Công Đồng Chung Vaticanô II, sau khi Hiến Chế Về Hội Thánh được chấp nhận. Cũng trong dịp này, Ngài đã tái dâng thế giới cho Mẹ:

“...Cũng giống như vị tiền nhiệm của Ta là Đức Thánh Cha Piô XII đã hiến dâng thế giới cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria khi thế giới đang trong lúc cực kỳ nguy biến... Ta cũng thế, nhận thấy sự bất chính trầm trọng hiện đang lấn át chúng ta, xin phó dâng loài người cho sự coi sóc của Mẹ Đồng Trinh” (TYP:122).

Qua hành động lập lại việc hiến dâng của Đức Thánh Cha Piô XII vào ngày 21-11-1964 mà Đức Thánh Cha Phaolô VI đã làm, tuy có sự hiện diện của các vị giám mục trên thế giới đang tham dự Công Đồng Chung Vaticanô II bấy giờ, song rõ ràng là Nước Nga vẫn chưa được dâng hiến cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội của Mẹ, như Thiên Chúa mong muốn.

Do đó, sự kiện “bằng không” vẫn tiếp tục diễn ra, nhất là ở Đông Nam Á. Với những trận đánh khốc liệt diễn ra ở Nam Việt như Mậu Thân vào năm 1968 hay Mùa Hè Đỏ Lửa vào năm 1972. Với Sát chiến Trường (Killing Field) Kampuchia do cộng sản gây ra từ năm 1970. Để rồi, kết cục là cả Cam-Bốt, Nam Việt và Lào đã hoàn toàn lọt vào tay cộng sản trong tháng 4 năm 1975.

Đặc biệt, cũng trong giai đoạn này, phong trào “Thần Học Giải Phóng” chính thức xuất đầu lộ diện, qua tác phẩm “Thần Học Giải Phóng: Lịch Sử, Chính Trị và Ơn Cứu Rỗi” của linh mục dòng tên người Ba-Tây, Gustavô Gutiérrez, xuất bản năm 1973, một phong trào mà Giáo Hội, qua văn kiện thứ nhất (trong hai văn kiện liên quan tâm đến vấn đề này) của Thánh Bộ Đức Tin “Chỉ Dẫn Về Một Vài Phương Diện Của Thần Học Giải Phóng”, đã tỏ ra quan tâm đến sự kiện ảnh hưởng của cộng sản nơi tư tưởng và phong trào Thần Học Giải Phóng này.

Riêng Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II, nhân chuyến công du mục vụ tại Mexicô năm 1979, khi ngỏ lời với các đức giám mục Mỹ Châu La-Tinh ở Puebla, dựa vào giáo thuyết của Đức Thánh Cha Phaolô VI, Ngài đã phải minh định ý nghĩa giải phóng theo Kitô giáo như thế này:

“Trên tất cả, giải phóng (ở đây là giải phóng) khỏi tội lỗi và sự dữ, trong niềm vui nhận biết Thiên Chúa cũng như được Thiên Chúa biết đến”. (MCD:318)

DƯỚI GIÁO TRIỀU CỦA ĐỨC THÁNH CHA GIOAN-PHAOLÔ II (16/10/1978-........)

Lên ngôi với khẩu hiệu “Tất cả là của Mẹ” (Totus Tuus), được gợi hứng từ cuốn Thành Thật Sùng Kính Mẹ Maria của thánh Louis Marie Grignion de Monfort, Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II đã thực hiện việc hiến dâng Nước Nga cho Đức Mẹ hai lần. Lần thứ nhất tại Fatima ngày 13-5- 1982, kỷ niệm đệ nhất chu niên ngày Đức Mẹ cứu Ngài khỏi bị ám sát chết, như chính Ngài nói: “Ta nhận thấy trong sự trùng hợp về ngày giờ, (Ngài bị ám sát ngày 13-5-1981, sau này, đi tông du ở đâu, chỗ của ngài trên máy bay luôn luôn trưng bày một ảnh Đức Mẹ Fatima),một lời mời gọi đặc biệt để đến nơi đây (Fatima)” (FT:245), và lần thứ hai ở trước Vương Cung Thánh Đường Thánh Phêrô.

Lần hiến dâng thứ nhất tại Fatima sau thánh lễ 3 tiếng đồng hồ, Đức Thánh Cha đã long trọng tái dâng thế giới và Nước Nga cho Mẹ như sau:

“Hôm nay, Gioan-Phaolô II, kế vị thánh Phêrô, tiếp nối công cuộc của (các vị tiền nhiệm) Piô, Gioan và Phaolô, nhất là của công đồng chung Vaticanô II, hiện diện trước Mẹ của Con Thiên Chúa tại đền thánh của Mẹ ở Fatima đây. Để làm gì? Người đến đây khi xúc động đọc lại lời từ mẫu kêu gọi ăn năn, cải thiện, lời nài nỉ tha thiết của Trái Tim Mẹ Maria vang vọng từ Fatima 65 năm về trước. Phải, Người đọc lại với tâm hồn xúc động, vì Người thấy rằng đã có biết bao dân tộc và xã hội, biết bao Kitô hữu đi ngược lại với chiều hướng của sứ điệp Fatima. Tội lỗi đã gắn chặt với thế giới này như gia cư của nó, và Thiên Chúa càng ngày càng bị chối bỏ trong ý thức, tư tưởng và đường lối của con người...

Vị kế vị Thánh Phêrô hiện diện ở đây hôm nay như một nhân chứng về nỗi khổ đau vô biên của nhân loại, chứng nhân về những tai biến chực chờ đang đe dọa các dân tộc và đại đồng nhân loại. Người đang ôm lấy những đau khổ này bằng trái tim nhân loại yếu đuối của mình, khi Người đặt mình trước mầu nhiệm của Trái Tim Từ Mẫu, Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria. Nhân danh những khổ đau này, với nhận thức về sự dữ đang tràn lan khắp thế giới và về những đe dọa cho tất cả mọi người, mọi dân tộc và đại đồng nhân loại, vị kế vị thánh Phêrô hiện diện nơi đây với đức tin mãnh liệt vào Tình Yêu Cứu Độ bao giờ cũng mạnh hơn mọi sự dữ sẽ cứu vớt thế giới.

Tâm hồn của Người quằn quại khi thấy tội lỗi thế giới và toàn khối tai biến đang như mây đen bao kín nhân loại, song cũng vui mừng trong hy vọng khi Người, một lần nữa, thực hiện điều mà các vị tiền nhiệm của Người đã làm là dâng hiến thế giới cho Trái Tim Mẹ, nhất là khi các Ngài dâng hiến cho Trái Tim Mẹ nhân dân đặc biệt cần phải dâng hiến. Làm như thế chẳng khác gì hiến dâng thế giới cho Đấng vô cùng Thánh Hảo. Sự Thánh Hảo này tức là sự cứu rỗi. Tức là tình yêu mạnh hơn sự dữ. Không có tội lỗi nào trên thế gian này có thể thắng vượt được Tình Yêu này...”

Lần hiến dâng thứ nhất này của Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II, dù Ngài đã cố gắng gửi thư trước ngày Ngài đi Fatima để kêu mời các đức giám mục trên thế giới hợp lòng hợp ý với Ngài, cũng chưa thực sự và hoàn toàn được đúng như ý muốn của Thiên Chúa, vì có lẽ thư của Ngài “gửi quá trễ” (30 Days:13) đã không kịp đến tay các đức giám mục lúc Ngài thực hiện việc hiến dâng này. Phải chăng, do đó, Ngài đã lập lại một lần nữa việc hiến dâng khẩn thiết này vào dịp Thánh Tượng Mẹ Fatima đến toà thánh Rôma. Lần này, “các đức giám mục trên thế giới được loan báo kịp thời” (30 Days:14). Vì thư Ngài gửi đi từ ngày 8-12-1983, trong thư Ngài viết như sau:

“Ngày 25-3-1983, chúng ta bắt đầu đặc biệt Mừng Kỷ Niệm Ơn Cứu Rỗi. Một lần nữa, Ta cám ơn qúi huynh đã hiệp với Ta khai mạc cùng một ngày mừng Năm Cứu Rỗi ở địa phận của qúi huynh. Lễ Trọng Truyền Tin mà trong chu kỳ phụng vụ nhắc nhở đến việc khởi sự công cuộc cứu rỗi nhân loại là một thời điểm thích đáng nhất cho việc khai mạc này... Qúi huynh thân mến, trong Năm Thánh Cứu Rỗi này, Ta muốn tuyên xưng quyền năng (cứu độ) này cùng với qúi huynh và với toàn thể Giáo Hội. Ta muốn tuyên xưng quyền năng cứu độ này nhờ Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội của Mẹ Thiên Chúa, Đấng đã cảm nghiệm được quyền năng cứu độ này ở một mức độ đặc biệt nhất.

Những lời lẽ trong việc hiến dâng và phú thác Ta gửi kèm theo đây, với một chút thay đổi, vẫn giống như những lời mà Ta đã đọc tại Fatima ngày 13-5-1982. Ta tin chắc chắn là việc lập lại hành động (hiến dâng) này trong Năm Mừng Kỷ Niệm Ơn Cứu Rỗi đáp ứng với lòng mong ước của nhiều con tim muốn tái diễn chứng cớ về lòng sùng kính của họ đối với Trinh Nữ Maria và muốn phú thác cho Người những sầu thương của họ nơi những tệ hại hiện nay, những lo âu về những tai biến đang chực chờ ở tương lai, những dự liệu cho hòa bình và công chính ở riêng các dân nước cũng như của đại đồng nhân loại. Ngày lễ trọng Truyền Tin trong mùa chay năm 1984 là ngày thích đáng nhất cho việc cùng nhau chứng tỏ này. Ta xin cám ơn qúi huynh, vào ngày này, qúi huynh lập lại việc này với Ta, tùy theo cách thức nào mà qúi huynh cho là thích hợp nhất” (TYP:125-127)

Sau đây là những lời hiến dâng thế giới và Nước Nga của Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ ngày 25/3/1984:

“Chúng con chạy đến với sự chở che của Mẹ, (ôi) Thiên Chúa Thánh Mẫu'. Khi thốt lên những lời ca nguyện mà Giáo Hội Chúa Kitô đã nguyện cầu qua bao nhiêu thế kỷ này, chúng con hôm nay đặt mình trước nhan Mẹ trong năm mừng kỷ niệm ơn cứu rỗi. Chúng con xin hợp với tất cả mọi chủ chăn trong Giáo Hội làm thành một thân thể và một tập đoàn, đúng như ý của Chúa Kitô muốn các tông đồ hiệp nhất với thánh Phêrô. Trong mối liên kết hiệp nhất này, chúng con đọc những lời hiến dâng mà chúng con muốn bao gồm một lần nữa hy vọng của Giáo Hội cũng như lo âu đối với thế giới ngày nay. Bốn mươi năm về trước, rồi 10 năm sau đó, tôi tớ của Mẹ là Đức Giáo Hoàng Piô XII, chứng kiến cảnh khổ đau của gia đình nhân loại, đã phó thác và hiến dâng cả thế giới cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội của Mẹ, đặc biệt là nhân dân mà Mẹ yêu thương và quan tâm cách riêng. Cũng thế giới của mọi người và mọi dân tộc này trước mắt của con hôm nay đây, con xin lập lại việc phó thác và hiến dâng mà vị tiền nhiệm của con đã thực hiện ở Tòa Thánh Phêrô: thế giới của kỷ nguyên thứ hai đang kết thúc, thế giới tân tiến, thế giới của chúng con hôm nay!

Ôi Mẹ của mọi người và mọi dân tộc, Mẹ biết rõ tất cả khổ đau và hy vọng của họ, với ý thức làm mẹ, Mẹ biết tất cả những giằng co giữa sự thiện và sự dữ, giữa ánh sáng và bóng tối, đang hành hạ thế giới tân tiến hôm nay, xin nhận lời kêu than mà chúng con được Thánh Linh khơi động trực tiếp dâng lên Trái Tim Mẹ. Với tình yêu của một Từ Mẫu và Tôi Tớ, xin hãy ôm lấy thế giới nhân loại của chúng con mà chúng con phú thác và hiến dâng cho Mẹ, vì chúng con đầy âu lo cho vận mệnh hiện tại và đời đời của mọi người và mọi dân tộc.
Một cách đặc biệt, chúng con xin phú thác và hiến dâng cho Mẹ tất cả những người và những dân nước cần được phú thác và dâng hiến. Chúng con chạy đến với sự bảo hộ của Mẹ, Thiên Chúa Thánh Mẫu: xin đừng chê chối lời cầu xin chúng con dâng lên Mẹ trong cơn khẩn trương của chúng con”.(TYF:127-128).

Về lần hiến dâng thứ hai, ngày 25/3/1984 này của Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II, chị Lucia đã lên tiếng như sau.

Vào ngày 1/8/1989, chị đã nói với một người em bà con 60 tuổi của chị, Maria do Fetal Neves Rosa, là chị đã trả lời cho giám mục giáo phận Leiria về câu hỏi cuộc hiến dâng vừa qua của Đức Thánh Cha có được Thiên Chúa chấp nhận không, (vì Ngài không đề cập rõ ràng đến Nước Nga), rằng: “Có. Giờ đây việc ấy đã
được thực hiện”. Chị còn nói thêm khi trả lời cùng một câu hỏi cho vị sứ thần toà thánh là “Thiên Chúa sẽ giữ lời củaNgài” (TRWL:46-47).

Trong thư đề ngày 21-11-1989 gửi cho nguyệt san 30 Days, chị viết: “Thế là Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II đã thực hiện việc hiến dâng ngày 25-3-1984. Tôi tin rằng không có trục trặc gì ở đây cả, và điều quan trọng nhất chúng ta cần nhớ về việc hiến dâng là sự hiệp thông của toàn dân Chúa, như Chúa Kitô muốn và đã xin với Cha của Người...” (30 Days:13).Õ“Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II đã thực hiện việc hiến dâng ngày 25-3-1984”và “Thiên Chúa sẽ giữ lời của Ngài”. Nghĩa là, như Đức Mẹ nói với chị Lucia, “một khi yêu cầu của Mẹ được thực hiện, thì nước Nga sẽ trở lại và sẽ có hòa bình”.

Quả thật, đúng một năm sau khi Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô thực hiện việc hiến dâng được Thiên Chúa chấp nhận này, thì Mikhail Gorbachev được bầu lên lãnh đạo đảng cộng sản Liên Bang Sô Viết tháng 3-1985. Để rồi từ đó, thế giới nói chung và khối cộng sản nói riêng, như đã đề cập đến ở chương một, "Hiện Tượng Nước Nga", bắt đầu thay đổi cho đến năm định mệnh 1989, năm mà chị Lucia tuyên bố “Thiên Chúa sẽ giữ lời của Ngài”.

Quả thật, ngay sau khi chị Lucia tuyên bố điều này vào ngày 1-8-1989 thì chính phủ cộng sản Ba-Lan đã bổ nhiệm một nhân vật thuộc Công Đoàn Liên Đới làm thủ tướng vào ngày 19/8/1989, đúng ngày Đức Mẹ hiện ra với ba Thiếu Nhi Fatima 72 năm về trước, 19-8-1917, tại Valinhos (chứ không phải tại nơi mà Mẹ vẫn hiện ra như 5 lần khác là Cova da Iria) vì lý do trở ngại từ chính quyền cộng sản Bồ Đào Nha bấy giờ.

BIẾN CỐ FATIMA

Phải, 75 năm về trước, Cộng Sản Liên Sô đã bắt đầu với cuộc về nước của Lenin ngày 16-4-1917 (sau 9 năm vận động cách mạng ở hải ngoại từ năm 1908) cầm đầu đảng Bolsheviks (năm 1918 đã đổi tên thành Đảng Cộng Sản) chính thức đi vào giai đoạn Cách Mạng Tháng Mười, để lật đổ Nga hoàng là Czar Nicholas II vào ngày 7-11-1917.

Vâng, cũng 75 năm về trước, một biến cố khác đã xẩy ra thật là trùng hợp và hoàn toàn ăn khớp với sự xuất đầu lộ diện của cộng sản tại Nga Sô. Đó là việc Đức Mẹ hiện ra với ba thiếu nhi ở Fatima nước Bồ Đào Nha sáu lần, từ tháng 5 tới tháng 10 năm 1917, khoảng thời gian ngay giữa cuộc Cách Mạng Vô Sản của Lenin ở Nga Sô (từ tháng 4 đến tháng 11/1917).

Một điều lạ lùng khó có thể chối cãi, có liên hệ đến hai biến cố này, đó là, ngay ngày 13 tháng 7 năm 1917, Đức Mẹ đã tiết lộ cho ba thiếu nhi Fatima là em gái Giaxinta, 7 tuổi, em trai Phanxicô, anh ruột của Giaxinta, 9 tuổi, và em gái Lucia, chị họ của cả Phanxicô và Giaxinta, 10 tuổi, ba điều Bí Mật. Điều Bí Mật thứ nhất, theo nội dung, liên quan đến số phận đời đời của chung các linh hồn. Điều Bí Mật thứ hai, liên quan trực tiếp đến Nước Nga. Và, điều Bí Mật thứ ba, dù chưa được Đức Thánh Cha tiết lộ từ năm 1960, theo đa số các học giả về Sự Lạ Fatima, có liên quan đến riêng vận mệnh của Giáo Hội.

Về điều Bí Mật Fatima thứ hai, Đức Mẹ đã tỏ cho ba thiếu nhi Fatima biết như thế này:

“...Chiến tranh sẽ chấm dứt, nhưng nếu con người không thôi xúc phạm đến Thiên Chúa, một cuộc chiến khốc liệt hơn nữa sẽ bùng nổ vào thời Đức Piô XI. Khi các con thấy trong đêm tối xuất hiện một ánh sáng lạ, các con hãy biết rằng, đó là dấu hiệu rõ ràng Thiên Chúa tỏ cho chúng con thấy rằng Ngài sắp sửa trừng trị thế giới vì tội lỗi của họ, bằng chiến tranh, đói kém, bắt bớ Giáo Hội và Đức Thánh Cha. Để tránh khỏi điều này, Mẹ sẽ đến để xin hiến dâng Nước Nga cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội của Mẹ và xin rước lễ đền tạ vào các Ngày Thứ Bảy Đầu Tháng. Nếu yêu cầu của Mẹ được thực hiện, Nước Nga sẽ trở lại và sẽ có hòa bình; bằng không, Nước Nga sẽ reo giắc lầm lạc trên khắp thế giới, gây chiến tranh và bắt bớ Giáo Hội. Kẻ lành sẽ tử đạo, Đức Thánh Cha sẽ chịu nhiều đau khổ, một số quốc gia sẽ bị tiêu diệt. Cuối cùng, Trái

Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội của Mẹ sẽ thắng. Đức Thánh Cha sẽ dâng hiến Nước Nga cho Mẹ, Nước Nga sẽ trở lại, và thế giới sẽ được hưởng một thời gian hòa bình...”

Phần Bí Mật thứ hai trên đây được chị Lucia viết ra trong phần Hồi Niệm thứ ba và thứ bốn. Tất cả những gì chị Lucia viết ra, hoàn toàn vì vâng lời Giám Mục Silva cai quản địa phận Leiria-Fatima, gồm có 4 phần, được gọi là Những Hồi Niệm (Memoirs):

Phần Hồi Niệm thứ nhất, nội dung về Giaxinta, được chị bắt đầu viết vào tuần thứ hai của tháng 12 năm 1935 và hoàn tất vào ngày 25/12/1935, lễ Chúa Giáng Sinh. Phần Hồi Niệm thứ hai, nội dung về chính mình, chị

Lucia bắt đầu viết vào ngày 7-11-1937 và hoàn tất vào ngày 21-11-1937, lễ Đức Mẹ Dâng Mình Vào Đền

Thánh. Phần Hồi Niệm thứ ba, ngắn nhất, nội dung về Giaxinta (thêm cho đầy đủ) và về hai bí mật đầu, được chị viết ngay sau khi nhận được thơ của đức giám mục da Silva ngày 26-7-1941 và hoàn tất ngày 31-8-1941. Phần Hồi Niệm thứ bốn, dài nhất, nội dung về Phanxicô, về Giaxinta (nếu còn sót điều gì), về thị kiến Thiên Thần và Đức Mẹ hiện ra, được chị viết ra sau khi được lệnh đức giám mục da Silva ngày 7-10-1941 và hoàn tất phần nhất ngày 25-11-1941 và phần hai ngày 8-12-1941, lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội.

Như thế, Bí Mật Fatima thứ hai, liên quan trực tiếp đến Nước Nga, như một lời tiên tri về tất cả những việc làm của Nước Nga và cuộc trở lại của Nước Nga, đã được tỏ cho thế giới biết, qua giáo quyền địa phương là đức giám mục da Silva, khi chị Lucia viết ra và gửi cho ngài. Theo lịch sử diễn tiến từ ngày Đức Mẹ hiện ra ở Fatima và tiết lộ cho loài người, qua ba thiếu nhi Fatima, biết bí mật của Mẹ, cách riêng bí mật thứ hai, thì mọi sự đã xẩy ra hoàn toàn ứng nghiệm với lời tiên tri của Mẹ. Những chứng tích lịch sử đó là:

“Chiến tranh sẽ chấm dứt":

Đại chiến thứ nhất bắt đầu bùng nổ từ ngày 28/6/1914 khi Francis Ferdinand, ông hoàng của nước Áo bị ám sát tại thủ đô Sarajevo, và đã chấm dứt ngày 11/11/1918 khi nước Đức ký đầu hàng đồng minh. Vào thời điểm Đức Mẹ nói “chiến tranh sẽ chấm dứt” là ngày 13-7-1917, thì Hoa Kỳ đã chính thức tuyên chiến với Đức ngày 6-4-1917 và mới bắt đầu đổ quân xuống Pháp ngày 24-6- 1917 để tiếp tay với các nước Âu Châu dập tắt lực lượng đơn thân độc mã khiêu chiến và chiến đấu của Đức quốc.

“Một cuộc chiến khốc liệt hơn nữa sẽ bùng nổ vào thời Đức Giáo Hoàng Piô XI":

Đại Chiến thứ hai quả nhiên đã chính thức xẩy ra vào ngày 1-9-1939 khi quân Đức xâm chiếm Ba-Lan, để rồi kết thúc, tại Âu Châu ngày 7/5/1945 khi Đức đầu hàng đồng minh vô điều kiện ở Reims nước Pháp, và tại Á Châu ngày 2-9-1945 khi Nhật ký đầu hàng Mỹ trên chiến hạm U.S.S.Missouri tại vịnh Tokyo. Hậu quả của cuộc Đại Chiến thứ hai này đúng là “khốc liệt hơn” Đại Chiến thứ nhất. Ở chỗ, trong khi Đại Chiến thứ nhất mất có 10 triệu mạng người lính, trong đó Pháp chiếm 1 triệu 1/3, Đức và Nga mỗi nước mất 1 triệu 3/4, thì Đại Chiến thứ hai thủ tiêu mất 17 triệu mạng người tham chiến, trong đó, có 7 triệu rưỡi của Nga, 3 triệu rưỡi của Đức và 1 triệu 1/4 của Nhật, cộng với 20 triệu mạng thường dân của Nga và 10 triệu mạng thường dân của Tầu. Cuộc Đại Chiến thứ hai này cũng đúng là “bùng nổ vào thời Đức Giáo Hoàng Piô XI”.

Đúng vậy, trước khi Đức Thánh Cha Piô XI băng hà ngày 10-2-1939, Đại Chiến thứ hai đã bắt đầu xẩy ra, trước tiên là Ý xâm chiếm Ethiopia năm 1935 và hoàn toàn khống chế nước này vào tháng 5/1936, sau đó là Nhật tấn công Trung Hoa vào năm 1937 và chiếm gần hết phần đất phía đông của Trung Hoa vào cuối năm 1938, sau cùng là Đức tiến vào nước Áo tháng 3 năm 1938 và sát nhập nước này với Đức quốc. Theo chị Lucia, “việc xâm chiếm Áo quốc là khơi mào cho chiến tranh. Khi Hoà Ước Munich được ký kết (ngày 29-30/9/1938, giữa Chamberlain, Hitler, Mussolini và Daladier công nhận Sudetenland là phần đất biên giới ở phía bắc của nước Czechoslovakia thuộc về Nazi Đức Quốc Xã), các dì (dòng thánh Đôrôthêô của chị) vui mừng vì họ nghĩ là hòa bình đã được vãn hồi. Tiếc thay, tôi lại biết rõ hơn các dì ấy nữa” (MOCC:XIV)

“Trong đêm tối xuất hiện một ánh sáng lạ...dấu hiệu Thiên Chúa sắp trừng phạt thế giới":

Tờ Le Nouvelliste de Lyons, ra ngày 26/1/1938 ở Pháp, đã viết về đêm 25 rạng 26/1/1938 theo nhận xét của ông Jean Dufay, giám đốc quan sát viện Saint-Genis-Laval, kiêm giảng sư khoa học Lyon, như sau:

“Quang cảnh mà chúng ta vừa chứng kiến rất lạ lùng. Đó là một vầng ánh sáng Bắc phương ở một cao độ khá, một hiện tượng rất hiếm đối với vĩ tuyến của chúng ta, hiếm có vào lúc này vì những luồng dưỡng khí và phát xạ đạm khí của một tổng hợp quang phổ kỳ diệu. Vầng ánh sáng bắc phương này luôn luôn liên hệ đến một vùng tròn mầu sắc vào một lúc nào đó băng ngang qua kinh tuyến chính của mặt trời. Những hiện tượng này xuất hiện trên trời bình thường xẩy ra khoảng 48 tiếng đồng hồ sau khi vùng tròn mầu sắc này qua đi. Mà, theo sự khảo sát của chúng ta về mặt trời mấy hôm vừa qua cho phép chúng ta nói được rằng đã không có một bóng mờ nào băng ngang qua thái dương. Điều đó càng chứng tỏ về sự lạ lùng của hiện tượng này vì thiếu nguyên nhân gây ra nó” (TWTAFII:705).

Theo chị Lucia, “vầng ánh sáng bắc phương” này chính là “dấu hiệu Thiên Chúa sắp trừng phạt thế giới” như

Đức Mẹ báo trước. Cuộc xâm chiếm của Đức đối với Áo quốc vào tháng 3 ngay sau đó không phải là khai mào cho việc Thiên Chúa trừng phạt thế giới “vì tội lỗi của họ” hay sao?

“Mẹ sẽ đến để xin dâng hiến Nước Nga cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội của Mẹ và xin rước lễ đền tạ vào các Thứ Bảy Đầu Tháng":

Mẹ Maria đã giữ đúng lời hứa này khi hiện ra với chị Lucia hai lần. Lần thứ nhất vào ngày 10/12/1925 tại Pontevedra nước Tây ban Nha, trong một tu viện của dòng thánh Đôrôthêô mà chị bấy giờ là một tập sinh,

Đức Mẹ hiện ra với chị cùng với Chúa Hài Nhi và nói với chị những lời sau đây:

“Hỡi con gái của Mẹ, hãy nhìn vào Trái Tim của Mẹ bị gai nhọn quấn quanh do các con người vô ơn bội bạc gây ra mỗi khi họ phạm thượng và vong ân. Ít là phần con hãy cố gắng ủi an Mẹ và này Mẹ hứa sẽ phù hộ trong giờ lâm chung bằng những ơn cần thiết cho những ai Năm Ngày Thứ Bảy Đầu Tháng liền xưng tội, rước lễ, lần năm chục kinh Mân Côi, và dùng mười năm phút suy về 15 mầu nhiệm Mân Côi, với ý đền tạ Mẹ” (FILOW:195).

Lần thứ hai vào ngày 13/6/1929 tại Tuy nước Tây Ban Nha, trong nhà nguyện dòng của chị, Đức Mẹ tay cầm Trái Tim hiện ra với chị ở thế đứng bên phải Thánh Giá bằng ánh sáng có những giọt máu từ mặt và cạnh sườn của Chúa Kitô chịu đóng đanh nhỏ xuống bánh thánh và chén thánh ở bên dưới cạnh sườn của Chúa, và Đức Mẹ nói với chị những lời sau đây:

“Đã đến lúc Thiên Chúa muốn xin Đức Thánh Cha hợp cùng với tất cả các giám mục trên thế giới để hiến dâng nước Nga cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ, Ngài hứa cứu nước Nga” (FILOW:200)

“Nếu yêu cầu của Mẹ được thực hiện, Nước Nga sẽ trở lại và sẽ có hòa bình; bằng không Nước Nga sẽ gieo rắc lầm lạc trên khắp thế giới, gây chiến tranh và bắt bớ Giáo Hội. Kẻ lành sẽ tử đạo, Đức Thánh Cha sẽ chịu nhiều đau khổ, một số quốc gia sẽ bị tiêu diệt":

Theo Bí Mật thứ hai mà Đức Mẹ tỏ ra cho ba Thiếu Nhi Fatima vào ngày 13-7-1917 này thì Đức Mẹ chỉ “yêu cầu”hai điều. Một là “”dâng Nước Nga cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội của Mẹ”, hai là “rước lễ đền tạ các Ngày Thứ Bảy Đầu Tháng”. Tuy nhiên, vào lần hiện ra với chị Lucia tại Tuy ngày 13/6/1929, theo lời của Mẹ, thì chỉ còn lại một “yêu Cầu” duy nhất. Đó là nếu Đức Thánh Cha hợp với toàn thể các đức giám mục trên thế giới hiến dâng Nước Nga cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội của Mẹ thì Nước Nga sẽ được cứu.

Tất cả diễn tiến việc thực hiện điều “yêu cầu” duy nhất này của Đức Mẹ, cũng là diễn tiến việc “Nước Nga sẽ được cứu" ở trong chương kế tiếp, "Đáp Ứng Yêu Cầu".

HIỆN TƯỢNG NƯỚC NGA

Nếu hiện tượng Mặt Trời nhẩy múa tại Fatima ngày 13-10-1917, theo Đức Mẹ nói với ba Thiếu Nhi Fatima, Giaxinta, Phanxicô và Lucia bấy giờ, là để cho mọi người tin (FILOW:161,166,168), thì, hiện tượng Nước Nga hoàn toàn từ bỏ chủ thuyết và chế độ vào đúng ngày lễ Chúa Giáng Sinh 25-12-1991 cũng chính là một việc Đức Mẹ làm để cho mọi người tin.

Thật ra, so sánh và kết luận như trên có thể sẽ đụng chạm đến một số người chủ trương rằng, việc Nước Nga từ bỏ chủ nghĩa và đế quốc cộng sản hoàn toàn là một việc tự nhiên và do tự nhiên. Về phương diện tích cực, Nước Nga từ bỏ chủ nghĩa và chế độ cộng sản đó là một sự thắng thế bất chiến tự nhiên thành của chủ nghĩa tư bản là chủ nghĩa bao giờ cũng hợp với quyền lợi và nhân vị của con người trong xã hội. Về phương diện tiêu cực, đó là một hậu quả cùng tất biến không thể nào tránh được, tạo nên do sự lỗi thời bẩm sinh và tận cốt lõi của chủ nghĩa cộng sản Mát-xít, cũng như do sự thất sách ngay từ ban đầu của chế độ cộng sản Lênít và Stanít.

Chủ trương cho rằng Cộng Sản không sớm thì muộn, chắc chắn thế nào cũng sụp đổ như thế cũng không phải là hoàn toàn vô lý. Chính Đức Thánh Cha Piô XI, như một vị tiên tri, trong thông điệp về Divini Redemptoris ban bố ngày 19-3-1937 đã quả quyết rằng: “Cộng sản không thể nào và sẽ không bao giờ đạt được mục tiêu của mình, ngay cả trong lãnh vực thuần túy kinh tế” (AC,23). Tại sao? Theo Đức Thánh Cha, là vì “tự bản chất cộng sản phản lại tôn giáo” (AC,22), và vì “cộng sản sai lầm tự căn bản” (AC,58), nên sẽ phải chịu quả báo bởi “luật tự nhiên và Tác Giả của nó” (AC,23), thế thôi.

Tuy nhiên, chủ trương rằng hiện tượng Nước Nga hoàn toàn từ bỏ chủ nghĩa và chế độ cộng sản là một sự thắng thế tất yếu của chủ nghĩa tư bản, một chủ nghĩa bao giờ cũng hợp với quyền lợi và nhân vị của con người trong xã hội, cũng chẳng chủ trương rằng, chỉ có chủ nghĩa tư bản mới làm cho con người được ấm no và hạnh phúc thôi. Thế mà, tại sao, như Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II nhận xét trong thông điệp Bách Chu Niên (Centesimus Annus): “Chính sách Mát-Xít đã thất bại, nhưng trên thế giới vẫn còn những tình trạng tẩy chay và lạm dụng nhau, nhất là ở khối Thế Giới Thứ Ba, cũng như tình trạng lạnh tình với nhau, nhất là ở các nước tân tiến” (CA,42). Phải chăng, là vì, cũng theo thông điệp này, “tư bản” ở đây không phải “là một đường lối kinh tế biết tôn trọng vai trò căn bản và tích cực về thương mại, thị trường, tư bản, và trách nhiệm hiệu quả đối với những phương tiện sản xuất, cũng như đối với tự do sáng kiến trong ngành kinh tế” (CA 42)

Vả lại, chủ trương rằng chủ nghĩa cộng sản tự bẩm sinh lỗi thời tận cốt lõi và chế độ cộng sản thất sách ngay từ ban đầu nên tới ngày tới giờ tự nhiên là “cùng tất biến”, cũng khó lòng mà giải đáp được thực trạng hiện nay trong thế giới cộng sản.

Đó là, trong khi Cuba và Việt Nam là hai nước cộng sản chư hầu, ăn nhờ sống dựa vào đại quan thày của mình là Nga Sô và các nước anh chị cộng sản ở Đông Âu vẫn còn ngang nhiên tồn tại cho đến bây giờ, lúc những giòng chữ này đang được viết ra, thì chính quan thày Nga Sô và các nước cộng sản anh chị ở Đông Âu đã đồng loạt tự động giải thể và biến thể từ năm 1989.Những diễn tiến về sự kiện sụp đổ chớp nhoáng đầy ngoạn mục của chế độ cộng sản ở Âu Châu vào cuối năm 1989 đã xẩy ra hoàn toàn ngoài mọi dự tưởng của những chính trị gia lỗi lạc nhất thế giới. Không phải hay sao, một chế độ độc tài đảng trị và sắt máu như cộng sản, hầu như, về phương diện loài người, không gì có thể tiêu diệt được nó và chống lại được sự bành trướng của nó. Thế mà, ngay trong lúc mà cả loài người đang lo sợ vì nó đang trở nên một hiểm họa vô cùng nguy hiểm đến vận mệnh cả loài người ở thế kỷ 20 này, thì tự nó lại quay ra chết “bất đắc kỳ tử”.

Những diễn tiến về sự kiện sụp đổ chớp nhoáng đầy ngoạn mục của chế độ cộng sản ở Âu Châu vào cuối năm 1989 đã xẩy ra hoàn toàn ngoài mọi dự tưởng của những chính trị gia lỗi lạc nhất thế giới. Không phải hay sao, một chế độ độc tài đảng trị và sắt máu như cộng sản, hầu như, về phương diện loài người, không gì có thể tiêu diệt được nó và chống lại được sự bành trướng của nó. Thế mà, ngay trong lúc mà cả loài người đang lo sợ vì nó đang trở nên một hiểm họa vô cùng nguy hiểm đến vận mệnh cả loài người ở thế kỷ 20 này, thì tự nó lại quay ra chết bất đắc kỳ tử.

Thật ra, đã có ba điều lạ lùng xẩy ra, đúng hơn, ba yếu tố định đoạt trong biến cố qua đời của chế độ cộng sản ở Âu Châu này. Thứ nhất, năm 1978, vị Giáo Hoàng Rôma (Gioan-Phaolô II) được bầu lên xuất thân từ một nước cộng sản. Thứ hai, năm 1980, tổ chức Công Đoàn Liên Đới (Solidarity) được Lech Walesa hình thành ở Ba Lan. Thứ ba, năm 1985, chính sách Cởi Mở (Glasnost) và Cải Tổ (Perestroika)được tân lãnh tụ Mikhail Gorbachev phát động ở Nga Sô.

Đức Giáo Hoàng Gioan-Phaolô là yếu tố thứ nhất trong ba yếu tố định đoạt cho hiện tượng khai tử của chế độ cộng sản Âu Châu.

Biến cố này bắt đầu từ khi Ngài về thăm quê hương của Ngài vào ngày 2-10/6/1979. Việc Ngài được phép chính quyền cộng sản Ba- Lan cho về thăm quê hương cũng không phải là chuyện thường. Đầu tiên chính quyền Ba Lan từ chối lời xin phép của Ngài. Sau đó, chính quyền đã tự nhượng bộ vào ngày 7/5/1979, ngày kết thúc bảy ngày và bảy đêm liên tục lần chuỗi trước Mình Thánh Chúa được tổ chức ở Đền Đức Mẹ Czestochowa để cầu nguyện cho việc được phép về thăm quê hương của Đức Giáo Hoàng. Để rồi, với ảnh hưởng của Ngài, Công Đoàn Liên Đới đã được hình thành.

Timothy Garton Ash, một ký giả người Anh, năm 1990 đã viết: “Chính tháng Sáu năm 1979 là khởi điểm cho cuộc kết liễu của riêng lịch sử Đông Âu... Tôi tin rằng chuyến công du đầu tiên về Ba-Lan của Đức Thánh Cha là chốt điểm của nó. Chỉ hơn một năm sau cuộc viếng thăm của Đức Thánh Cha là Công Đoàn Liên Đới ra đời, nếu không có cuộc viếng thăm này của Đức Thánh Cha, chưa chắc đã có Công Đoàn Liên Đới. Gương của Công Đoàn Liên Đới là một khai triển tân kỳ. Nó đã đi tiên phong như là một hình thái chính trị mới mẻ ở Đông Âu (và không phải chỉ mới mẻ ở đó mà thôi): chính trị tự tổ hợp nhằm điều giải cho việc chuyển nhượng của cộng sản” (CI:57).

Mikhail Gorbachev, nguyên lãnh tụ Cộng Sản Liên Sô, cho rằng Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II đã giữ một vai trò rất quan trọng trong việc Cộng Sản Đông Âu sụp đổ. Trong một bài báo được nhiều tờ báo nổi tiếng trên thế giới đăng tải vào tháng 3/1992, Gorbachev đã viết: “Những biến cố ở Đông Âu không thể nào xẩy ra nếu không có vai trò quan trọng mà Ngài (ĐTC Gioan-Phaolô II) tự biết phải đóng vai trò như thế nào trong hiện tình thế giới... Tôi vẫn tin ở tầm mức quan trọng nơi những hành động của Đức Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II trong những năm ấy” (FFM 4-6/92:21). Công Đoàn Liên Đới là yếu tố thứ hai định đoạt cho hiện tượng khai tử của chế độ cộng sản Âu Châu.

Sự lạ thứ nhất là việc chính quyền cộng sản Ba-Lan vào năm 1980 đã công nhận Công Đoàn Liên Đới, một tổ chức bao gồm chừng 50 nghiệp đoàn của người Ba-Lan, do Lech Walesa lãnh đạo.

Sự lạ thứ hai là, dù bị chính quyền đàn áp vào năm 1981 và dù bị chính quyền chính thức giải tán vào tháng 10 năm 1982, Công Đoàn Liên Đới vẫn tồn tại cho đến ngày được tái công nhận là ngày 17- 4-1989. Vẫn biết, theo dư luận báo chí, Công Đoàn Liên Đới nhận được viện trợ ngầm của Mỹ, có thể nhờ đó mà tồn tại, tuy nhiên, cũng theo dư luận báo chí, sở dĩ cuộc viện trợ của Mỹ đến được tay Công Đoàn Liên Đới là vì chính phủ Cộng Sản Balan bấy giờ cho biết dù "chúng tôi không hài lòng tí nào về điều này ... Trong một vài trường hợp chúng tôi đã mhắm mắt làm ngơ, vì sợ lộ tẩy chân tướng của các tay trong do chúng tôi gài vào Công Đoàn Liên Đới này" (30 Days 3/92:17). Với các tay trong của chính quyền cộng sản như thế mà Công Đoàn Liên Đới vẫn tồn tại. Đó mới là sự lạ, và sự lạ là ở chỗ đó.

Sự lạ thứ ba là Tadeusz Mazowiecki, cố vấn của Công Đoàn Liên Đới, được bổ nhiệm làm thủ tướng vào ngày 19-8-1989, là một biến cố chưa từng có trong thế giới cộng sản, làm náo động tận nền móng tất cả chủ nghĩa cộng sản hiện đại, mở màn cho biến động Đông Âu.

Sự lạ thứ bốn, cũng là sự lạ chính yếu, đó là sự thành công một cách quá ư tốt đẹp của Công Đoàn Liên Đới, một thành quả gặt hái được, như Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II viết trong thông điệp Bách Niên (Centesimus Annus) của Ngài, nhờ “chỉ sử dụng khí giới chân thật và công chính... bởi cuộc tranh đấu bất bạo động của những con người mà, trong khi nhất định không chịu nhượng bộ trước những thế lực, liên lỉ tìm kiếm những đường lối hữu hiệu để minh chứng cho sự thật” (CA:23).

Chính Lech Walesa, đương kim tổng thống Ba-Lan, tại trụ sở Liên Hiệp Quốc ở Nữu Ước, ngày 14/10/1991, dịp chia sẻ về chủ đề và những nguyên tắc trong thông điệp Bách Niên(Centesimus Annus) của Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II, đã phát biểu và diễn thuật về “cuộc tranh đấu bất bạo động”, “cuộc chống đối thuận hòa”, “cuộc chống đối làm sụp đổ chủ nghĩa Mát-Xít” như sau: “Hãy nhớ rằng tất cả là mười triệu người tích cực tham dự. Sự bất mãn đã bộc phát ở một mức độ ngoài dự liệu. Sau mười tám tháng chống đối chính quyền cộng sản mà không cần sô xát như tấn công ngục Bastilles, không cần dựng nên các đoạn đầu đài, không một mảnh kính bị đập bể, chúng tôi đã chiến thắng” (CI:57).

Chính sách Cởi Mở và Cải Tổ của Mikhail Gorbachev là yếu tố thứ ba định đoạt cho hiện tượng khai tử của chế độ cộng sản Âu Châu.

Đối nội, Gorbachev chủ trương hai chính sách: Cởi Mở về tư tưởng và phát biểu và Cải Tổ về chính trị và kinh tế. Với tinh thần và đường lối này, đối ngoại, Gorbachev cũng chủ trương Cải Tổ lại tất cả, như rút quân khỏi Afghanistan, cắt giảm vũ trang nguyên tử và lực lượng quân sự, khuyến khích khối cộng sản Đông Âu cải tổ chính trị cũng như kinh tế và hứa không can thiệp vào nội bộ cải tổ của mỗi địa phương. Kết quả là những cuộc bùng nổ thực sự đã xẩy ra ở các nước cộng sản Đông Âu.

Khởi đầu là Ba-Lan, ngày 4 và 18 tháng 6 năm 1989, đã tổ chức bầu cử tự do, lần đầu tiên kể từ năm 1947.

Thứ đến là Hung Gia Lợi, ngày 10-9-1989, chính quyền cộng sản đã mở cửa biên giới cho dân Đông Đức từ ngả nước Áo trốn sang Tây Đức, và ngày 18-10-1989, đã chấp nhận hình thức bầu cử đa đảng.

Rồi Tây Đức, ngày 18-10-1989, đã truất phế lãnh tụ cộng sản Erich Honecker, và ngày 9-11-1989 đã mở cửa biên giới, phá đổ bức tường Bá-Linh, để cho dân tha hồ tuốn sang Tây Đức; nhất là, vào ngày 7-12-1989, đảng cộng sản Tây Đức đã tự giải thể và kêu gọi tổ chức bầu cử đa đảng vào tháng 5/1990, để rồi, kết thúc với một nước Đức thống nhất vào ngày 3/10/1990.

Rồi Bulgaria,ngày 10-11-1989, quyền bính trong tay nhà độc tài Todor Zhivkov sau 35 năm đã bị mất vào tay một nhà cải cách.

Rồi Czechoslovakia, ngày 10-12-1989, một chính quyền vừa cộng sản lẫn không cộng sản (đa số) đượcthành hình, dọn đường cho việc bầu cử tự do.

Rồi Romania, ngày 22-12-1989, lãnh tụ Nicolae Ceausescu đã hoàn toàn bất lực trong việc truyền khiến quân đội và bị tử hình ngày 25-12-1989 vì bị kết tội là kẻ thù của dân tộc.

Sau hết, ngay tại Liên Bang Sô Viết, tháng 3/1990, một cuộc bầu cử tự do đã được thực hiện và Gorbachev đã đắc cử tổng thống Liên Bang Sô Viết; ngày 20 và 21/8/1991, nhân cuộc nổi dậy của đảng cộng sản hôm 19-21/8/1991, ba nước cộng hòa Baltic là Estonia, Latvia và Lithunia đã tái tuyên bố độc lập (sau lần đòi độc lập thứ nhất vào tháng 3/1990), kéo theo sự thành lập của Khối Thịnh Vượng Chung vào ngày 21/12/1991 cho 11 trong 12 (trừ Georgia) nước thuôc Cộng Hòa Sô Viết.

Phải chăng, sự sụp đổ của Liên Bang Sô Viết và khối Cộng Sản Đông Âu chỉ là khổ nhục kế của Cộng Sản Nga So<131>? Chính Mikhail Gorbachev, vào tháng 11 năm 1987, đã nói những lời sau đây với các nhân vật trong ủy ban nghiên cứu chính sách của đảng Cộng Sản: “Hỡi các đồng chí, đừng lo về những điều mà tất cả các bạn nghe được có liên quan đến chính sách cởi mở và cải cách vào những năm tới. Những chính sách này chỉ là một nhu cầu đối ngoại mà thôi. Ngoài mục đích đánh bóng, sẽ không có một thay đổi hệ trọng đối nội nào cả. Mục đích của chúng ta là giải giới Hoa Kỳ và làm cho họ tưởng bở. Chúng ta muốn đạt được 3 điều là: thứ nhất, chúng ta muốn lực lượng thỏa hiệp của Hoa Kỳ rút khỏi Âu Châu; thứ hai, chúng ta muốn khí giới nguyên tử của Hoa Kỳ rút khỏi Âu Châu; thứ ba, chúng ta muốn Hoa Kỳ bỏ tiến hành Lực Lượng Chiến Lược Phòng Thủ” (CT: Spring 92).

Những âm mưu thật là thâm độc này của Cộng Sản không phải là không thể có và không thể xẩy ra. Tuy nhiên, nếu quả thật như vậy thì họ đã đi một nước cờ quá liều, đến nỗi, thực tế đã xẩy ra hoàn toàn ngoài tầm kiểm soát và dự tính của họ. Phải chăng "Họ đã đào hố trước mặt tôi, nhưng họ lại rơi ngay xuống hố họ đào" (TV 57:7).

Quả thât đường lối Chúa thật khôn dò. Ngài không hề phạm đến tự do mà Ngài đã ban cho con người, thế mà con người vẫn không thể nào đi lệch khỏi những gì Ngài đã định liệu từ trước theo Thượng Trí vô cùng khôn ngoan của Ngài. Thiên Chúa là chúa tể muôn loài. Chính Ngài, chứ không phải Cesar, không phải Napoleon, không phải Hítler, không phải Lenin, không phải ai hết... điều hành lịch sử loài người. Do đó, tât cả những gì Ngài đã định liệu, chắc chắc sẽ xẩy ra khi tới thời điểm của nó.

Phải, thời điểm tận số của cộng sản tại Liên Bang Sô Viết sau 74 năm làm kinh hoàng chung thế giới và đọa đầy riêng nhân dân Nga, thât sự đã xẩy ra khi tổng thống Liên Bang Sô Viết Gorbachev từ chức vào chính ngày lễ kỷ niệm Thiên Chúa giáng sinh 1991, ngày mà các thần trời, hiện thân của hòa bình, như Thiên Thần Hòa Bình, vị hiện ra với 3 Thiếu Nhi Fatima năm 1916, đã từ trời cao xuống giữa đêm đông âm u rét buốt của trần gian năm xưa ấy, để cùng nhau hợp xướng tung hô:

"Vinh Danh Thiên Chúa trên trời,
Bình an dưới thế cho người Chúa thương" (Lc 2:14)

NHỮNG LẦN MẸ HIỆN RA

Tại sao cho đến thế kỷ 20 này, vào ngày 13/6 và 13/7/1917, qua Mẹ Maria, Thiên Chúa mới tỏ ý “muốn thiết lập việc tôn sùng Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ trên thế giới”?

Phải chăng: Đã đến thời tận thế?

Thật vậy, theo thánh Louis Marie Grignion De Monfort, “Ơn cứu rỗi của thế giới nhờ Mẹ Maria được khởi sự thế nào thì cũng qua Mẹ Maria mà được hoàn tất như vậy... Là đường để Chúa Giêsu đến với chúng ta lần thứ nhất thế nào, Mẹ cũng là đường để Ngài đến lần thứ hai như vậy, tuy không cùng một kiểu cách” (TTSKMM, 49, 50.4).

Như thế, phải chăng, hễ bất cứ lúc nào con người thấy Thiên Chúa bắt đầu muốn tỏ Mẹ của Ngài ra cho thế giới biết thì lúc ấy chính là thời tận thế?

Không phải hay sao, tại Fatima, chính Mẹ đã tỏ cho con người biết rằng: “Thiên Chúa muốn (dùng con, chị Lucia) để làm cho Mẹ được nhận biết và yêu mến... Thiên Chúa muốn thiết lập lòng tôn sùng Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ trên thế giới”.

Do đó, có thể tin rằng đây là thời tận thế vậy!?!

Vả lại, còn một sự kiện nữa có thể chứng minh được rằng đây là thời tận thế. Đó là sự kiện xuất hiện của Thiên Thần tại Fatima năm 1916, trước năm 1917 là năm Mẹ hiện ra với ba Thiếu Nhi cũng tại Fatima. Tại sao sự kiện Thiên Thần hiện ra ở Fatima lại có liên hệ đến thời gian sau hết của loài người như thế? Bởi vì, trong dụ ngôn cỏ lùng vực, Chúa đã nói đến vai trò của các thiên thần là “những thợ gặt” (Mathêu 13:39) trong ngày cuối thời.Trong ngày truyền tin Ngôi Lời nhập thể, tức ngày Chúa Kitô đến trần gian lần thứ nhất trong, qua và nhờ cung lòng trinh nguyên của Mẹ Maria, không phải cũng đã có mặt của thiên thần hay sao.

Các thiên thần đã thực hiện sứ mạng làm “những thợ gặt”của mình ở chỗ, chỉ vẽ cho con cái của Giáo Hội nói chung và cho con cái của Mẹ như ba Thiếu Nhi được Mẹ tuyển chọn nói riêng, biết hợp cùng Mình Máu Thánh của Chúa Kitô đã được cấu tạo và hạ sinh bởi Mẹ Maria, để tin yêu Thiên Chúa thay cho các tội nhân cũng như để đền tạ Ngài cầu cho các tội nhân. Nếu các con cái của Mẹ làm đúng như lời thiên thần dạy, như Mẹ đã “xin vâng” như lời thiên thần truyền, chắc chắn các tội nhân sẽ được Thiên Chúa cứu rỗi. Như thế, không phải là các thiên thần đã gặt hái các linh hồn trong thời tận thế này hay sao!

Thật sự, theo Thánh Kinh, “thời sau hết” bắt đầu kể từ khi “Ngôi Lời hóa thành nhục thể và ở giữa chúng ta” (Gioan 1:14): “Vào những thời đã qua, Thiên Chúa đã dùng các tiên tri mà nói với cha ông chúng ta qua nhiều thể nhiều cách; vào thời sau hết này Ngài đã nói với chúng ta qua Con của Ngài..”(Do Thái 1:2).

Bởi thế, những đoạn Thánh Kinh Tân Ước nói về những gì xẩy ra vào “những ngày sau hết” (2Phêrô 3:3; 2Timôthêu 3:1) hay vào “giờ sau hết” (1Gioan 2:18) không phải chỉ nói đến những gì xẩy ra cho riêng ngày tận thế, cho bằng nói đến chung những gì xẩy ra cho Giáo Hội kể từ khi Chúa Kitô về trời. Chẳng hạn, câu “Hỡi các con, vào thời giờ sau hết, như các con đã nghe thấy những Phản Kitô đã đến, lúc này đây nhiều Phản Kitô như vậy đã xuất hiện rồi. Như thế là chúng ta nắm chắc được rằng đây là thời giờ sau hết” (1Gioan 2: 18). Ở đây, Thánh Kinh xác định r “Phản Kitô đã đến... đã xuất hiện”, vào chính thời những câu văn này được viết ra từ thế kỷ thứ nhất sau Công Nguyên.

Nếu bắt đầu kể từ khi Thiên Chúa tỏ Mình Ngài ra qua Ngôi Lời nhập thể và cứu thế được gọi là “thời sau hết”, thì kể từ lúc Chúa Kitô muốn tỏ Mình Ngài ra qua Mẹ của Ngài, tức muốn Mẹ Ngài được nhận biết và yêu mến để Ngài, như thánh Louis Maria Grignion De Monfort viết trong cuốn Thành Thực Sùng Kính: ”Vào lần Chúa Giêsu đến lần thứ hai, Chúa Thánh Thần sẽ làm cho Mẹ Maria được biết đến và tỏ hiện, để, qua
Mẹ, Chúa Giêsu cũng được nhận biết, yêu mến và phụng sự” (TTDTM,49), cũng có thể được gọi là “thời tận thế”. Do đó, “thời tận thế” có thể nói được là “Thời của Mẹ” hay “Thời Đại Maria”.

Đây không phải là Thời của Mẹ Maria, là Thời Đại Maria hay sao? Ba sự kiện sau đây có thể chứng minh được quả quyết này. Sự kiện thứ nhất là những lần Mẹ hiện ra (được Giáo Hội chính thức công nhận) từ đầu thế kỷ 19 đến nay. Sự kiện thứ hai là các tín điều về Mẹ được Giáo Hội tuyên tín và công bố. Và sự kiện thứ ba là phong trào tượng Mẹ Thánh Du khắp thế giới. Trong chương này chỉ nói đến những lần Mẹ hiện ra từ đầu thế kỷ 19 mà thôi.

Trong 18 thế kỷ đầu của lịch sử Giáo Hội, Đức Mẹ chỉ hiện ra một số lần, nếu tổng cộng lại, còn ít hơn số lần Mẹ hiện ra vào khoảng thời gian hai thế kỷ của “thời tận thế” này. Chẳng hạn: Cuối thế kỷ thứ 12, Mẹ đã hiện ra hai lần vào năm 1198 và 1199. Năm 1198, với thánh Simon Stock và năm 1199 với thánh Đa- Minh. Với thánh Simon Stock, Đức Mẹ hiện ra tại nơi ngài ẩn tu 20 năm, vào lúc 12 giờ trưa ngày 12/5, để giới thiệu Áo Đức Bà và truyền cho đi phổ biến cho người ta. Với thánh Đaminh, Đức Mẹ đã hiện ra vào tháng 5 khi ngài đang ở một miền núi nước Tây Ban Nha, đưa cho ngài chuỗi Mân Côi, dạy cho ngài biết sử dụng kinh Mân Côi đẻ làm khí giới chống bè rối Albigense.

Vào thế kỷ 16, năm 1531, Mẹ hiện ra với Juan ở Guadalup, nước Mễ Tây Cơ để xin dựng một đền thờ kính Mẹ, nơi mà Mẹ muốn dùng để ban ơn cho những ai đến cầu khẩn Mẹ.

Vào thế kỷ 17, Mẹ đã hiện ra với chị đáng kính Maria D'Agreda trong khoảng thời gian 1627-1637 để tỏ và dạy cho mẹ bề trên tu viện thánh Clara Khó Khăn Mẹ Vô Nhiễm này biết về cuộc đời của Mẹ. Tất cả những gì được Mẹ mạc khải cho biết, chị đã viết lại thành truyện về cuộc đời Mẹ với tựa đề Thiên Nhiệm Đô.

Thế mà, kể từ đầu thế kỷ 19, nếu chỉ kể đến những nơi được Giáo Hội chính thức công nhận, Mẹ đã hiện ra liên tiếp nhiều lần, mỗi lần Mẹ ban những sứ điệp hệ trọng liên quan đến vận mệnh của riêng một dân nước hay của chung cả loài người.

NĂM 1830, Ở BA-LÊ, nước Pháp, Mẹ đã hiện ra với một chị tập sinh thuộc dòng Nữ Tử Bác Ái thánh Vinh-Sơn Phao-Lô là Catarina Labuarê,(vị nữ tu đã được Đức Thánh Cha Piô XII phong thánh năm 1947 và được Giáo Hội kính nhớ hằng năm vào ngày 28-11), ba lần, lần thứ nhất vào 11 giờ 30 đêm ngày 18 cho đến 1 giờ 30 sáng ngày 19 tháng 7, lần thứ hai vào ngày Thứ Bảy 27 tháng 11, và lần thứ ba vào tháng 12 cùng năm để hỏi chị về việc mà Mẹ đã trao cho chị.

Vào lần hiện ra thứ nhất, Đức Mẹ đã nói với chị như sau:

“Những điều khủng khiếp sắp xẩy ra ở nước Pháp. Ngai vàng sẽ bị hủy hoại và cả thế giới sẽ bị kinh động vì những tai ương rùng rợn ... Thánh giá sẽ bị chà đạp ... Máu sẽ chảy trên đường phố... Thế giới chìm ngập trong sầu thảm...” (TWSC: 17-18)

Vào lần hiện ra thứ hai, Đức Mẹ đứng trên quả cầu, đồng thời cũng cầm trên tay một quả cầu nhỏ có thánh giá trên đầu quả cầu, và nói:

“Quả cầu mà con thấy đây là thế giới. Mẹ vẫn cầu nguyện cho nó và cho mọi người trong thế giới này...” (TWSC:19). Thế rồi, sau đó, quả cầu trên tay Mẹ biến đi, hai tay Mẹ xuôi xuống, và Mẹ được bao quanh bằng một vòng trái xoan với hàng chữ: “Ôi Maria đầu thai vô nhiễm tội, cầu cho chúng con chạy đến cùng Mẹ” (TWSC:19). Chị nghe thấy tiếng nói với chị: “Hãy theo hình ảnh này mà làm một mẫu ảnh bằng kim loại. Tất cả những ai đeo nó sau khi được làm phép sẽ lãnh nhận được nhiều ơn, nhất là khi họ đeo nó ở cổ” (TWSC:19).

NĂM 1846, Ở LA SALETTE, cũng nước Pháp, Mẹ đã hiện ra với hai thiếu niên là Melanie Mathieu (nữ, 14 tuổi) và Maximin Giraud (nam, 11 tuổi) vào ngày Thứ Bảy, 19-9.

Khi hiện ra với hai thiếu niên này, Đức Mẹ đã than thở, kêu gọi và chỉ dạy những điều sau đây:

“Hỡi các con của Mẹ, đừng sợ, hãy đến đây với Mẹ. Mẹ đến để cho các con biết những điều quan trọng. Nếu các con không nghe lời Mẹ, thì Mẹ đành phải buông cánh tay Con của Mẹ. Cách tay của Ngài đè nặng đến nỗi Mẹ không còn cản lại được nữa. Mẹ còn phải chịu khổ vì các con đến bao giờ... Cầu nguyện thật là khẩn thiết, cả sáng lẫn tối. Nếu các con không có giờ, tối thiểu hãy đọc kinh Lạy Cha và kinh Kính Mừng. Nếu có giờ, hãy đọc nhiều hơn” (TWSC:41-43,45-46)

Sau khi Mẹ hiện ra với 2 thiếu niên này, Đức Thánh Cha Piô IX muốn biết về Bí Mật La Salette. Trong khi viết ra những điều bí mật theo ý muốn của Đức Thánh Cha, Melanie đã hỏi về ý nghĩa của chữ “vô ngộ” và xin đánh vần cho chữ “phản Kitô”. Sau khi đọc những điều hai thiếu niên này viết, Đức Thánh Cha đã nói với những kẻ muốn biết về bí mật như sau: “Các con muốn biết bí mật này ư? Nó là thế này: 'Nếu các ngươi không ăn năn hối cải, tất cả các ngươi sẽ bị tiêu diệt'”.

NĂM 1858, Ở LỘ-ĐỨC, một lần nữa cũng tại nước Pháp, Mẹ đã hiện ra với một em gái 14 tuổi tên là Bernadette Soubirous, (sau này được Đức Thánh Cha Piô XI phong thánh năm 1933, và được Giáo Hội kính nhớ hằng năm vào ngày 16-4), 18 lần, từ ngày 11 tháng 2 đến 16 tháng 7.

Sứ điệp của Mẹ trong những lần hiện ra tại đây là:

Vào ngày 18/2: “Ta không hứa làm cho con được hạnh phúc ở đời này, mà là ở đời sau” (THAL:88);

- Vào ngày 24/2: “Hãy hối cải, hối cải. Hãy cầu nguyện cùng Chúa cho các tội nhân và hãy ăn năn hôn đất
cầu cho các tội nhân trở lại” (THAL:96);

- Vào ngày 25/3: “Ta là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội” (THAL:113).

NĂM 1917, Ở FATIMA, nước Bô Đào Nha, Mẹ đã hiện ra với ba Thiếu Nhi là Giaxinta (nữ, 7 tuổi), Phanxicô (nam, 9 tuổi) và Lucia (nữ, 10 tuổi) sáu lần, năm ngày 13/5-6-7-9-10 và một ngày 19/8.

Theo chị Lucia thuật lại trong Hồi Ký của chị, lần hiện ra nào Mẹ cũng kêu gọi "hãy lần hạt Mân Côi hằng ngày". Mục đích lần hạt Mân Côi này, như Mẹ nói, là "để cầu cho hòa bình thế giới".

Lần hiện ra thứ hai, Mẹ cho biết ý Chúa muốn thiết lập lòng tôn sùng Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ trên thế giới.

Lần hiện ra thứ ba, Mẹ cho ba Thiếu Nhi thị kiến thấy hỏa ngục và tiết lộ ba Bí Mật.

Lần cuối cùng, Mẹ xưng mình: “Ta là Đức Mẹ Mân Côi”, rồi Mẹ làm phép lạ cho mặt trời nhẩy múa để mọi người tin.

NĂM 1932 VÀ 1933, Ở BEAURAING, nước Bỉ, Mẹ đã hiện ra với năm em học sinh, 4 nữ và 1 nam, đó là Fernande (15 tuổi), Andree (14 tuổi), Gilberte Voisin (13 tuổi), Albert (11 tuổi), Gilberte Degeimbre (9 tuổi), 33 lần, từ ngày 29/11/1932 đến 3/1/1933.

Sứ điệp Mẹ đã ban vào những lần hiện ra với một số điều quan trọng như:

- Vào ngày 21/12/1932: “Mẹ là Trinh Nữ Vô Nhiễm Nguyên Tội” (AWCWTS:225);

- Vào ngày 30/12/1932: “Hãy cầu nguyện, cầu nguyện thật nhiều” (AWCWTS:226);

- Vào ngày 1/1/1933: “Hãy luôn luôn cầu nguyện” (AWCWTS:226).

- Lần cuối cùng, 3/1/1933, Đức Mẹ nói với Gilberte Voisin: “Mẹ sẽ làm cho các tội nhân ăn năn hối cải”, với Andree: “Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, Nữ Vương Thiên đàng. Hãy luôn cầu nguyện” (AWCWTS:227).

CUỘC HIỆN RA VÀ THÔNG ĐIỆP ĐỨC MẸ KIBEHO

ĐẤT NƯỚC RWANDA NĂM 1980
Tất cả mọi nơi trong đất nước Rwanda, sự phá hoại không kềm chế được từ năm 1980 cho đến năm 1981. Hầu hết tất cả các tượng Đức Trinh Nữ Maria đặt tại lối vào các ngôi làng đều bị chặt gẫy tay, phá hủy, hoặc bị đánh cắp. Đây là thời gian đau buồn, Đức Mẹ hầu như bị quên lãng và không ai cầu nguyện với Mẹ. Ngay cả các Linh Mục cũng không lần hạt nữa, bị tác động bởi sự tuyên truyền của các nhà thần học giả, là những người muốn làm cho chúng ta tin rằng sự sùng kính như thế là điều cổ hủ lạc hậu. Người Công Giáo bị làm nhục, giới tu sĩ bắt đầu hoàn tục.
Chính vào thời điểm sa ngã này mà Đức Mẹ Maria đã chọn thăm viếng đất nước Rwanda. Từ năm 1981 cho đến năm 1989, đất nước này đã nghe tiếng Đức Trinh Nữ Maria như chưa từng được nghe trước đây. Kibeho tọa lạc tại miền nam đất nước, là nơi nghèo nàn nhất của xứ sở Rwanda. Tại nơi đây, có sự hiện diện của hai vị Linh Mục năng động đã tạo nên lòng nhiệt thành cho dân chúng.
NGÔI TRƯỜNG – NƠI NHỮNG LẦN ĐỨC MẸ HIỆN RA:
Vào lúc bắt đầu niên khóa 1981, ngôi trường này có 120 học sinh được chia ra làm ba lớp học. Có ba nữ tu điều hành ngôi trường này. Các giáo viên khác, gồm một cô giáo và năm thầy giáo, đều là giáo dân. Tất cả đều là người Rwanda, hai người theo Tin Lành còn lại những người khác là người Công Giáo. Phần đông các học sinh là người Công Giáo, cũng có 17 học sinh theo đạo Tin Lành và 2 học sinh theo Hồi Giáo. Các chuẩn mực đạo đức đều thiếu vắng gương mẫu thể hiện.
LẦN HIỆN RA ĐẦU TIÊN:
Alphonsine Mumureke, người hạnh phúc được thấy Mẹ của Đấng Cứu Thế. Alphonsine Mumreke, là thị nhân đầu tiên ở Kibeho, cô được 17 tuổi, và đang theo học năm đầu tiên cấp 2 tại Kibeho. Cô là người rất ngoan đạo và luôn tỏ hiện một tình yêu lớn lao dành cho Đức Trinh Nữ Hồng Phúc. Cô cũng thích tham dự Thánh Lễ. Dưới đây là lời thuật lại của cô về cuộc hiện ra đầu tiên:
“Sự việc đã diễn ra vào ngày Thứ Bảy, 28-11-1981, vào lúc 12 giờ 35 phút. Tôi đang ở trong phòng ăn của nhà trường, đang phục vụ cho các bạn học của mình. Bất chợt nghe thấy có tiếng gọi tôi.”
Đức Maria: “Con gái của Mẹ ơi”
Alphonsine: “Dạ, con đây.”
“Tôi bước ra hành lang và thấy một phụ nữ rất đẹp. Tôi quì xuống, làm dấu Thánh Giá, và hỏi: “Bà là ai?”
Đức Mẹ nói tiếng bản xứ: “Ndi Nyina Wa Jambo” “Ta là Mẹ Ngôi Lời.” Trong đạo, con thích điều gì hơn?
Alphonsine: “Con yêu Chúa và Mẹ của Người, Người đã cho Con của Người để cứu độ chúng con.”
Đức Mẹ Maria: “Nếu quả vậy, Ta tới để làm dịu lòng con, bởi vì Mẹ đã nghe thấy tiếng con cầu khẩn. Mẹ mong muốn bạn bè của con cũng có đức tin bởi vì họ không có đủ đức tin.”
Alphonsine: “Lạy Mẹ của Đấng Cứu Chuộc, nếu quả thật Mẹ tới đây để nói cho chúng con biết điều ấy ở đây, trong ngôi trường này, là đức tin của chúng con kém cỏi, tức là Mẹ yêu thương chúng con vậy. Lòng con thật sự tràn ngập vui mừng được Mẹ hiện ra với con.”
Anphonsine kể lại: “Đức Trinh Nữ không làn da trắng như chúng ta thường thấy nơi các ảnh thánh. Tôi không thể xác định được nước da của Người, nhưng vẻ đẹp của Mẹ thì không gì có thể so sánh nổi. Mẹ đi chân trần trong một chiếc áo dài trắng liền mảnh không một đường khâu ghép, chiếc khăn voan đội đầu cũng mầu trắng. Tay Mẹ chắp trước ngực, những ngón tay hướng lên trời. Sau đó, tôi được bảo cho biết là tôi đang ở trong phòng ăn. Các bạn học của tôi nói rằng tôi nói nhiều thư tiếng như: Pháp, Anh, Kinyarwanda, v.v…”
“Khi Đức Đức Trinh Nữ Hồng Phúc chia tay, tôi đọc 3 Kinh Kính Mừng và đọc lời nguyện: “Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến”. Khi Mẹ ra đi, tôi thấy Mẹ bay lên Trời giống như Chúa Giêsu vậy.
Vào cuối buổi hiện ra, thị nhân này vẫn còn trong trạng thái bất động hôn mê trong 15 phút như thể là bị tê liệt và tất cả mọi tác động nhằm đưa cô ra khỏi tình trạng xuất thần này đều vô ích. Cả các giáo viên lẫn các nữ tu đã không tin vào những gì Alphonsine nói ra. Họ đều cho rằng cô bị bệnh chứ chẳng phải là Đức Mẹ hiện ra gì cả.
Hiện tượng lạ đã xảy ra một lần nữa vào ngày kế tiếp 29-11. Trong tháng 12, những lần hiện ra đã diễn ra hầu như vào mỗi ngày Thư Bẩy. Do tính hiếu kỳ kích thích, các học sinh cũng như các giáo viên đã thử nghiệm sự xuất thần có đáng tin hay không. Họ dí diêm (hộp quẹt lửa) đang cháy vào Alphonsine, hoặc chích kim nhọn vào cô, nhưng thị nhân ấy chẳng có phản ứng nào.
Alphonsine đau lòng rất nhiều trong thời gian bị hành hạ một cách khéo léo. Họ chế nhạo cô: “Cô thị nhân đang đến kìa!” Trong lần hiện ra vào ngày 08-05-1982, Alphonsine phàn nàn với Đức Trinh Nữ Maria là: “Thiên hạ nói là chúng con điên khùng.” Trong ngày ấy, lần đầu tiên Đức Mẹ đã tỏ hiện ra.
Nhiều dấu lạ đã được ban từ Trời cao để làm cho các giáo viên cũng như các học sinh tin những cuộc hiện ra là xác thực. Những học sinh nào có tràng hạt Mân Côi đều đem đến cho Đức Trinh Nữ Hồng Phúc làm phép. Những xâu chuỗi ấy đều lẫn vào với nhau và vì thế Alphonsine không thể biết được ai là chủ nhân của chúng. Alphonsine cầm lấy các chuỗi hạt và dâng lên cho Đức trinh Nữ Hồng Phúc. Một số chuỗi hạt trở nên quá nặng, và cô thị nhân không thể nhấc lên nổi để xin được làm phép. Có một người sau đó đã nhận ra là xâu chuỗi nặng nề đó thuộc về một học sinh không tin Đức Mẹ hiện ra là thực và đã chỉ trích các cuộc hiện ra ấy. Đồng thời, tại khu nội trú, mọi người đều thấy xuất hiện một ngôi sao và các ánh sáng lập lòe.
Nếu như lần hiện ra đầu tiên đã diễn ra tại phòng ăn và vào ban ngày, thì những lần hiện ra sau này lại diễn ra vào ban đêm tại khu nội trú, trong phòng của thị nhân. Đức Trinh Nữ Maria thường báo cho cô thị nhân biết ngày hiện ra kế tiếp của Người.
Ở Rwanda, tin tức lan đi thật mau. Thiên hạ vội vã đổ xô đến góp mặt vào những buổi hiện ra. Do lời yêu cầu của Đức Giám Mục, thị nhân được phép nói về Đức Mẹ hiện ra với vị Hiệu Trưởng. Và cuộc gặp gỡ sẽ diễn ra ngoài trời, trong sân trường. Một số lần hiện ra vẫn tiếp diễn tại khu nột trú – là các lần hiện ra có tính cách cá nhân với cô thị nhân và các học sinh.
ANATHALIE DÂNG CÁC CHUỖI MÂN CÔI CHO ĐỨC MẸ LÀM PHÉP
Đức Maria sẽ từng bước một làm cho các học sinh biết đến Mẹ và lôi kéo chúng về phía Mẹ. Mẹ ban cho chúng các lời khuyên nhủ, các lời khích lệ, những lời nhận xét để đưa chúng vào đường ngay lối phải. Mẹ thực sự là một người mẹ dạy dỗ cho con cái mình bằng tình yêu thương từ mẫu của Mẹ. Đức Mẹ thực sự là Nữ Vương của ngôi trường này. Mẹ sẽ là Nữ Vương của tất cả mọi trường học.
Ai cũng biết rằng tình trạng của các học đường trên thế giới hiện nay thật khủng khiếp, bởi vì Thiên Chúa bị xua đuổi ra khỏi trường, Lề Luật của Người không còn được giảng dạy nữa. Ngay cả việc cầu nguyện với Người trong các học đường cũng bị cấm đoán! Mỗi sáng, khi chúng ta đến tham dự Thánh Lễ, lòng chúng ta tan nát khi thấy những chiếc xe bus chất đầy học sinh chở đến trường. Thật tội nghiệp, chúng được dạy dỗ là Thiên Chúa không hiện hữu! Đức Mẹ tới Kibeho trong một ngôi trường, để làm gương cho toàn thế giới, và chỉ ra cách thức làm thế nào có thể biến đổi các học sinh một khi Lề Luật Thiên Chúa được giảng dạy trong trường.
Vì có sự chống đối mạnh mẽ đã xảy ra vào buổi hiện ra lần đầu tiên, nên một số giáo viên và học sinh nói rằng: “Chúng tôi sẽ tin vào việc Đức Mẹ, Mẹ Thiên Chúa, hiện đến ngôi trường của chúng ta này, chỉ khi nào Mẹ hiện ra với nhiều người khác bên cạnh Alphonsine.” Cô thị nhân đã trả lời họ: “Các vị hãy cầu nguyện để nhận được ơn này.”
ĐỨC MẸ HIỆN RA VỚI HAI EM NỮA
Vào ngày 12-01-1982, Đức Mẹ chấp nhận các lời cầu nguyện của các em học sinh, nên Mẹ hiện ra với một thiếu nữ tên là Anathalie Mumkamazimpaka và còn hiện ra với cô cho đến ngày 03-12-1983. Marie Claire Mukangango giới thiệu chuỗi kinh Bảy Sự Thương Khó Đức Mẹ. Em đã bị giết trong cuộc chiến năm 1994.
Vào ngày 02-03-1982, trước sự ngạc nhiên của tất cả mọi người, Đức Mẹ hiện ra với Marie Claire Mukangango. Sự việc ấy chẳng khác chi một trái bom trong trường, bởi vì Marie Claire là một trong số những người đã tỏ ra hầu như chẳng tin điều gì cả. Đời sống Kitô Hữu của cô chẳng có gì đặc biệt, và thậm chí còn xa vời đối với các chuẩn mực của đời sống Kitô Hữu nữa. Cô gọi đã Alphonsine là ‘mụ điên’. Và bây giờ tới phiên cô bị nắm bắt bởi một quyền năng mầu nhiệm. Đức Mẹ đã chọn cô để truyền bá Sứ Điệp của Người, và cho đến nay Marie Claire luôn nói: “Chúng ta phải suy niệm về Cuộc Tử Nạn của Chúa Giêsu và các nỗi sầu bi sâu đậm của Mẹ của Người. Chúng ta phải đọc Kinh Mân Côi mỗi ngày, và lần chuỗi 7 Sự Thương Khó Đức Mẹ để nhận được ơn ăn năn thống hối.” Marie sẽ được Đức Mẹ hiện ra cho tới ngày 15-09-1982.
NƯỚC PHÉP
Trong tháng Giêng và tháng Hai năm 1982, có hiện tượng ma quái xảy ra trong khu nội trú. Để xua đuổi những thế lực không tên tuổi này, các nữ tu phải dùng đến nước phép Lộ Đức, việc này đã thực sự có hiệu quả, nhưng chẳng bao lâu nước phép không còn nữa. Vì vậy, Anathalie được yêu cầu xin với Đức Trinh Nữ Maria làm phép nước trong lúc Mẹ hiện ra. Sự việc này xảy ra ngày 02 tháng 03, năm 1982. Bắt đầu từ độ ấy, tại Kibeho, có tập tục cầu xin Đức Trinh Nữ Maria làm phép nước trước lúc Mẹ hiện ra.
Hiện nay ở Kibeho có 3 thị nhân, tất cả đều là sinh viên trường cao đẳng. Cả ba thị nhân ấy nay đã được Giáo Hội công nhận, đó là Alphonsine, Anathalie và Marie Claire.
ĐỨC MẸ HIỆN RA Ở CÁC NƠI KHÁC
Các cuộc hiện ra của Đức Mẹ Maria, sau lần hiện ra đầu tiên với Alphonsine, đã diễn ra trong khu nội trú cho đến ngày 16-01-1982.Từ ngày ấy, hoặc Mẹ hiện ra một cách công khai trong sân trường, hoặc trong khu nội trú của học sinh, hoặc tại một nơi mà nay đã đổi thành một nhà nguyện. Đó là nơi mà các học sinh đến cầu nguyện vào buổi tối và đó sẽ là khoảng thời gian đầy ân huệ được Đức Trinh Nữ Hồng Phúc đến thăm một trong các thị nhân của trường. Các học sinh đều có mặt trong buổi hiện ra và thường thưa chuyện với Đức Trinh Nữ về đời sống học đường. Các cuộc hiện ra ấy chỉ được coi là có tính chất riêng tư, chứ không được xem là các cuộc hiện ra có tính chất công khai.
Tuy nhiên, tất cả mọi người có thể đến tham dự các cuộc hiện ra tại sân trường. Có một cuộc đàm thoại giữa thị nhân và Đấng hiện đến. Mọi người đều có thể nghe thấy và ghi âm những lời nói của cô thị nhân, nhưng đương nhiên là không thể nghe thấy lời Đức Trinh Nữ Maria nói. Rất nhanh, các đám đông người ngày càng trở nên đông hơn, nhất là vào tháng 5, năm 1982, là tháng Kính Đức Mẹ.
Một khán đài và các loa phóng thanh công suất cao được dựng lên để cho giới báo chí và các thành viên của Ủy Ban Y Khoa và Thần Học được tự do đi lại, và trên hết, cho phép quần chúng nghe được lời đối thọai của các thị nhân. Vào ngày 15-08-1982, đã có 20.000 người tham dự.
Đến gần cuối thời gian hiện ra, Đức Trinh Nữ Hồng Phúc yêu cầu các thị nhân chúc lành cho đám đông. Các thị nhân vẫn ở trong tình trạng xuất thần; họ không nhìn thấy đám đông mà chỉ trông thấy một vườn hoa, có hoa tươi và có các hoa khác đang tàn úa. Đức Mẹ yêu cầu các thị nhân tưới nước cho hoa và Mẹ giải thích rằng các hoa tươi tiêu biểu cho những người có trái tim đang hướng về Thiên Chúa, trong khi những đóa hoa tàn lại tiêu biểu cho những người đang hướng về các sự thế gian, nhất là hướng về tiền của.
CÁC CHUYẾN ĐI THẦN BÍ.
Cũng có các chuyến đi có tính chất thần bí. Alphonsine đã cảm nghiệm được hiện tượng này vào ngày 20 và 21 tháng Ba năm 1982. Cô báo trước cho Sơ Hiệu Trưởng và các bạn học: “Tôi sẽ trông giống như đã chết, nhưng đừng sợ; đừng chôn tôi! ” Cuộc lữ hành đã trải qua 8 giờ. Các Linh Mục, các Nữ Tu, các giới Tu Sĩ, các trợ tá y tế của Hội Hồng Thập Tự, tất cả mọi người đều có thể thấy Alphonsine chìm đắm vào trong một giấc ngủ sâu, thân thể cô duỗi thẳng ra và rất nặng nề. Họ không thể nào nhấc nổi cô cũng như không thể nào gỡ bàn tay đang chắp lại của cô ra. Trong chuyến lữ hành ấy, Đức Trinh Nữ Hồng Phúc đã hiện tỏ cho cô thấy Thiên Đàng, Luyện Ngục và Hỏa Ngục.
Một hiện tượng đầy ấn tượng khác đã diễn ra tại Kibeho, đó là các việc ăn chay và giữ thinh lặng mà Chúa Giêsu hay Đức Mẹ đã yêu cầu. Sự việc này cũng đã được ủy ban thẩm tra xem xét lại. Các lần ăn chay có thể kéo dài cho đến 14 ngày mà không hại gì đến sức khỏe của các thị nhân.
CÔ CẦU NGUYỆN VÀ CA HÁT.
Trong một lần Đức Mẹ hiện ra, Alphonsine được chữa khỏi một căn bệnh viêm họng khốc liệt đến nỗi không nói được cũng như một căn bệnh trầm trọng về mắt. Trong buổi hiện ra ngày 02-10, cô đã ngã xuống đất 7 lần, và tuy nằm trên mặt đất, cô vẫn tiếp tục cầu nguyện và ca hát. Cô cầu xin cho mình được ơn ghét bỏ tội tỗi, được sức mạnh để không còn phải mang vác các ao ước về xác thịt. Cô hát: “Lạy Nữ Vương Trời Đất.” Sau đó là lời cầu khẩn: “Chúng ta hãy giúp Người để cứu thế giới…” Trong lời cầu nguyện của mình, Alphonsine luôn cầu xin cho ơn gọi làm Linh Mục và đời sống tu trì. Cô cũng không quên cầu nguyện cho giới trẻ. Cô cầu nguyện cho hòa bình, bởi vì theo cô: “Có nhiều mối bất đồng, nghi ngờ, hận thù khắp nơi trên toàn thế giới.” Cuối cùng, cô cầu nguyện cho hàng Giám Mục Rwanda, cho các vị nguyên thủ các quốc gia và cho toàn thể thế giới.
HAI NGÔI THÁNH ĐƯỜNG
Ngày 05-08-1982, Đức Trinh Nữ Maria nói với Anathalie:
“Mẹ nói với con nhưng con không thèm nghe Mẹ. Mẹ muốn nâng con lên nhưng con lại muốn ghìm mình xuống. Mẹ gọi con, nhưng con lại giả điếc. Khi nào con sẽ làm những gì Mẹ yêu cầu con đây? Con cứ giữ thái độ dửng dưng với những mọi kêu gọi của Mẹ. Bao giờ con mới chịu hiểu? Bao giờ con mới nhận ra sự ích lợi trong những điều Mẹ muốn nói với con? Mẹ ban cho con những dấu chỉ nhưng con lại ngờ vực. Con cứ giả điếc tới bao giờ nữa trước những lời kêu gọi của Mẹ? ”
Đức Trinh Nữ Hồng Phúc đã nhiều than phiền như trên về yêu cầu xây cất 2 ngôi thánh đường ở vị trí các lần hiện ra. Anathalie đã nói với những người có thẩm quyền, nhưng việc ấy chưa được tiến hành. Tuy nhiên, Đức Giám Mục sở tại và các Linh Mục trong giáo xứ tuy đã biết được về tính chất xác thực của các cuộc hiện ra, nhưng các Ngài phải đi qua bước thẩm xét theo lệ thường.
ĂN NĂN SÁM HỐI
Đám đông diện kiến những lần Đức Mẹ hiện ra trong sân trường.
Sau đây là cuộc đối thoại diễn ra giữa Marie Claire và Đức Mẹ Maria trong ngày 02-04-1982:
- Đức Maria: “Hãy Sám hối! Sám hối! Sám hối!”
- Marie Claire: “Con có làm, thưa Mẹ.”
- Đức Mẹ Maria: “Khi Mẹ nói với con điều này, không có nghĩa là chỉ nói cho một mình con, mà Mẹ còn muốn nói cho tất cả những người khác nữa. Con người thời nay đã không còn nhận ra một điều có ý nghĩa thật sự của mình: họ phạm lỗi nhưng không nhận ra là mình đã làm sai.”
- Marie Claire: “Chúng con yếu đuối, không có sức mạnh. Xin Mẹ ban cho chúng con sức mạnh để nhận ra được các lỗi lầm của mình và xin sự tha thứ các lỗi lầm ấy.”
Đức Mẹ dặn dò chúng ta hãy lần chuỗi Bẩy Sự Thương Khó để thu nhận được ơn thống hối các tội lỗi chúng ta.
Ngày 31-05-1982, Đức Mẹ nói với Marie Claire:
“Điều Mẹ xin các con là ăn năn sám hối. Nếu con lần chuỗi này trong lúc suy niệm về lòng ăn năn sám hối, các con sẽ có sức mạnh để thống hối tội lỗi. Hôm nay, nhiều người không biết một chút nào hết cầu xin ơn tha thứ. Một lần nữa họ lại đóng đinh Con Thiên Chúa vào Thánh Giá. Bởi vậy Mẹ muốn đến với các con để nhắc nhở cho các con lòng ăn năn sám hối, nhất là ở đất nước Rwanda này, vì ở đây Mẹ vẫn còn tìm thấy những con người khiêm nhường không dính bén với giầu sang cũng như tiền bạc.”
Đức Mẹ xin chúng ta lần chuỗi này hằng ngày nếu có thể được, nhưng đặc biệt là những ngày sau đây: Thứ Sáu là ngày nhắc lại cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu; Thứ Ba là kỷ niệm ngày đầu tiên Đức Mẹ hiện ra với Marie Clarie vào Thứ Ba,ngày 02-03-1982; Ngày 14-09 là ngày lễ suy tôn Thánh Giá; và ngày 15-09 là ngày lễ kính Đức Mẹ Sầu Bi.
SỨ ĐIỆP CHO NGUYÊN THỦ QUỐC GIA.
Dưới đây là các trích đoạn trong một Sứ Điệp của Mẹ Thiên Đàng ban cho thị nhân Alphonsine trong buổi hiện ra cuối cùng vào ngày 28-11-1898. Trích đoạn này đã được phát hành trong tờ “Michael” số tháng 05 – tháng 06, năm 1990.
“Mẹ nói với các con là những người đang nắm quyền lực cai trị, và những người đại diện cho quốc gia: hãy gìn giữ dân chúng thay vì trở thành những người làm khổ dân. Đừng bóc lột dân mà hãy chia sẻ với họ. Hãy cẩn trọng chứ đừng ngược đãi, bịt miệng những người tố giác các sai lầm của các con. Mẹ nói điều ấy cho các con, lập lại điều ấy, bất kể các con làm gì, cho dù các con đang dùng mọi thứ để gây hại cho người ta vì họ yêu thương các người cùng chí hướng với họ, bênh vực nhân quyền, chiến đấu cho sự tôn trọng đời sống của người khác, và chiến đấu cho sự thật và tất cả mọi điều ngay lành, và thậm chí vì họ chiến đấu để Thiên Chúa sẽ được mến yêu và được tôn trọng, bất kể những gì các con làm, các con cũng không thể nào chống lại Người được đâu.”
Đức Mẹ còn nói với Alphonsine: “Mẹ thương con rất nhiều. Nếu Mẹ đến đây, chính vì con cần đến Mẹ.”
HIỆN TƯỢNG PHI THƯỜNG
Những người đến hành hương tại Kibeho đã làm chứng cho một số các hiện tượng lạ thường: hiện tượng mặt trời nhảy múa từ bên phải sang bên trái, từ phía trên xuống phía dưới trong khoảng thời gian 10 phút; hiện tượng mặt trời biến mất, thay vào đó là một mặt trăng màu xanh lá cây nhạt; hiện tượng các vì tinh tú nhảy múa; hiện tượng các cây Thánh Giá tỏa sáng trên bầu trời.
Nhưng phép lạ vĩ đại nhất tại Kibeho là các đợt sóng những con người hoán cải, các đợt sóng những con người thực hành cầu nguyện, do bởi những lần hiện ra của Đức Mẹ. Đức Trinh Nữ Maria đã đặc biệt kêu gọi dâng hiến cho Mẹ bản thân con người và giới trẻ, những con người khốn khổ ấy trong thời đại chúng ta đang đến trường, không những không có Thiên Chúa mà còn chống lại Thiên Chúa!
ĐỨC GIÁM MỤC JEAN BAPTISTE GAHAMANYI
Đức Giám Mục Jean Baptiste Gahamanyi, là người có trách nhiệm coi sóc Giáo Phận Butare trong thời gian các cuộc hiện ra, đã được phỏng vấn theo tờ Tạp Chí của Người Công Giáo (“Chretiens Magazine”) thuộc Giáo Hội Công Giáo Pháp Quốc xuất bản định kỳ trong số phát hành ngày 15-05-1988. Ngài đã phát biểu:
“Ngay từ ngày đầu tháng Giêng năm 1982, Tôi đã mời Alphonsine tới để: Hỏi về danh hiệu Đức Trinh Nữ của Người, và Sứ Điệp của Mẹ dự định dành cho những ai – cho làng Kibeho, cho đất nước Rwanda, cho Phi Châu hay cho toàn thể thế giới.
Nói một cách rõ ràng Sứ Điệp của Mẹ.
Xin Mẹ đừng hiện ra quá trễ và xin Mẹ hiện ra tại một nơi đủ rộng để có thể tụ tập được nhiều người.
“Và lần hiện ra tiếp theo, Đức Mẹ đã hiện ra tại sân trường, nhưng không xa nơi đầu tiên có những lần Mẹ đã hiện ra, và lần hiện ra ấy đã diễn ra lúc 3 giờ chiều.
“Đức Trinh Nữ Maria nói rằng mục đích của Mẹ đến đây là để truyền đạt một Sứ Điệp kêu gọi hoán cải (qua đời sống cầu nguyện và xưng thú tội lỗi, một đời sống được đổi mới nhờ Lời Chúa và nhờ các việc làm bác ái và công bằng).
“Mẹ cũng tuyên xưng Danh Thánh của Mẹ: “Mẹ của Ngôi Lời”, ngõ hầu con người sẽ không nhầm lẫn Mẹ với người mẹ khác: Con trẻ mà Mẹ đã sinh ra, là Thiên Chúa.
“Mẹ đã nhấn mạnh trong một Sứ Điệp tương tự kêu gọi từ bỏ tội lỗi, và khuyên nhủ mọi người thực hành cầu nguyện liên lỷ nhằm giữ chúng ta hiệp thông với Ba Ngôi Chí Thánh. Đây là cách thức sùng kính Bảy Sự Thương Khó của Đức Trinh Nữ Maria đã được khám phá ra như thế nào.
“Tôi tuyệt đối không nghi ngờ gì về điều đã diễn ra có tính chất siêu nhiên tại Kibeho. Sứ Điệp có thật, người ta phải cảm thấy mình cần phải quan tâm đến.”
THỊ KIẾN VỀ CUỘC CHIẾN TRANH VÀO NĂM 1994 SAU ĐÓ
Trong thời gian viếng thăm đất nước Rwanda, Đức Thánh cha Gioan Phaolô II đã hô hào các tín hữu hãy hướng về Đức Trinh Nữ như là người dẫn đường đưa lối chắc chắn và đơn sơ, và cầu nguyện cho sự cam kết cao cả hơn chống lại các phân hóa có tính chất cục bộ địa phương, cả về chính trị lẫn dân tộc.
Một trong những lý do then chốt đã mang các giới thẩm quyền có trách nhiệm của Giáo Hội nhận biết Đức Mẹ hiện ra tại Kibeho là xác thực, là thị kiến báo trước về hiểm họa diệt chủng đã xảy ra 12 năm sau, vào năm 1994. Vào ngày 19-08-1982, các thị nhân đã thấy “một con sông máu, người ta chém giết lẫn nhau, các thi thể bị bỏ mặc không người chôn cất, cây cối bốc cháy hoàn toàn, các thây ma không đầu.” Lời tiên báo này tiên vàn dường như không được tin tưởng, nhưng khoảng một thập niên sau đó vào mùa xuân năm 1994,một cuộc nội chiến kinh hoàng bung nổ tại Rwanda, và chỉ trong 3 tháng, ước luợng có từ 500.000 đến 1.000.000 người đã bị giết, nhiều người bị chặt đầu bằng dao rựa và vất xuống con sông Kagea (“giòng sông máu”).
Đức Trinh Nữ Hồng Phúc đả cảnh báo chúng ta tại Kibeho rằng sự chung chạ tình dục bừa bãi sẽ dẫn đến thảm họa. Đó là trước khi thế giới biết về căn bệnh liệt kháng (AIDS), mà trong năm 1994, Phi Châu có 70% các trường hợp nhiễm bệnh liệt kháng trên thế giới – và toàn bộ các ngôi làng đã trở nên các thành phố ma! Đến nay, 25 triệu người Phi Châu đã nhiễm phải căn bệnh liệt kháng.
Nhưng các lời cảnh báo của Đức Trinh Nữ Maria Hồng Phúc không chỉ dành riêng cho Phi Châu. Đức Trinh Nữ đã nói với thị nhân Marie Claire Mukangango là người đã bị giết chết trong chiến tranh sau đó: “Khi Mẹ nói cho con điều này, Mẹ không nói chuyện với con một cách nghiêm khắc đâu con à, mà Mẹ đang đưa ra lời kêu gọi cho toàn thế giới.” Thị nhân Marie Claire đã nói rằng Đức Trinh Nữ mô tả thế giới như là một cuộc nổi loạn chống lại Thiên Chúa, thế giới “đang ở bên bờ thảm họa”.
Để ngăn ngừa chiến tranh và các sự trừng phạt, Mẹ Ngôi Lời mời gọi các thị nhân trẻ và toàn thể thế giới hãy cầu nguyện, ăn chay và ăn năn thống hối tội lỗi.
Sau các sự kiện kinh hoàng đã xảy ra tại Hoa Kỳ (9-11), và đó là các điềm tiên báo về một cuộc chiến tranh nhiều mức độ tàn phá và đẫm máu hơn, chúng ta xin các đọc giả của chúng ta hãy đem vào thực hành lời yêu cầu của Đức Giáo Hòang Gioan Phaolô II: “Hãy cầu nguyện để ngăn chặn chiến tranh!”
Và trên hết tất cả, chúng ta hãy lưu ý đến lời yêu cầu của Đức Mẹ: Hãy hoán cải bằng việc đi xưng tội, bằng việc xưng thú tội lỗi của mình với lòng sầu muộn thâm sâu; chúng ta hãy tham dự Thánh Lễ mỗi ngày Chúa Nhật; chúng ta hãy lần hạt Mân Côi và suy niệm các mầu nhiệm để nhớ lại các biến cố chính trong đời sống của Đấng Cứu Chuộc chúng ta, là Chúa Giêsu Kitô, đã được thuật lại trong Tin Mừng; chúng ta hãy nguyện gẫm tràng chuỗi Bảy Sự Thương Khó của Đức Mẹ để nhắc nhở chúng ta rằng Đức Mẹ Maria đã sát cánh với Đấng Cứu Chuộc chúng ta, Mẹ chịu đau khổ cùng với Thánh Tử Giêsu của Mẹ để cứu vớt chúng ta.
Bài của Thérèse Tardif
CÁC SỨ ĐIỆP:
“…Điều mà các thị nhân đã nói ra tại Kibeho đã thể hiện các hình ảnh khủng khiếp mơ hồ sẽ xảy ra trong tương lai: một cái cây bốc cháy, một con sông máu, nhiều thi thể bị chặt đầu và nhiều thi thể bị bỏ mặc không được chôn cất.”
“…Trong một cuộc thị kiến trải qua 8 giờ, các thị nhân đã thấy các hình ảnh khủng khiếp người ta chém giết lẫn nhau, các thi thể bị vứt xuống sông. Họ thấy các thi thể đã bị chặt mất đầu. Họ kêu gào và khóc lóc, còn các nhân chứng tụ tập đông đúc chung quanh các thị nhân bị bỏ mặc với ấn tượng sợ hãi và đau buồn không thể quên được.”
Các thị nhân đã nói rằng: nếu đất nước Rwand không trở lại cùng Thiên Chúa, thì sẽ có một “giòng sông máu”.
Vào tháng 11 năm 1981, Đức Mẹ đã nhiều lần hiện ra tại Kibeho, Rwanda thuộc Phi Châu cho 7 thị nhân: Alphonsine, Emmanuel, Anathalie, Maria Claire, Stephanie, Agnes và Vestine. Ba người trong số họ là các học sinh nội trú tại một trường cao đẳng do các nữ tu cai quản ở một miền đất nghèo nàn, và ba thị nhân khác sống trong một rừng cây bụi. Chúa đã hiện ra với riêng một người ngoại giáo tên là Sagtashe, là người sau khi được Chúa hiện ra với cậu, đã lấy tên Thánh là Emmanuel. Chúa dạy cho cậu đọc Kinh Lạy Cha và hướng dẫn đức tin cho cậu. Emmanuel đã được Đức Mẹ ban Sứ Điệp như dưới đây:
“Không còn nhiều thời gian để chuẩn bị cho Cuộc Phán Xét Sau Cùng. Chúng ta phải thay đổi đời sống của mình và từ bỏ tội lỗi. Hãy cầu nguyện và chuẩn bị cho cái chết của bản thân mình và cho ngày tận thế. Chúng ta phải chuẩn bị trong khi thời gian vẫn còn. Những ai chuẩn bị tốt sẽ được lên Thiên Đàng. Nếu họ làm điều ác, bản thân họ sẽ bị án phạt không có hy vọng được tha thứ. Đừng đánh mất thời gian để làm việc thiện và cầu nguyện. Chẳng còn nhiều thời gian đâu và Chúa Giêsu sẽ đến.”
Cho dù các cuộc hiện ra của Đức Mẹ với 6 thị nhân khác đã chấm dứt vào năm 1983, Alphonsine vẫn còn được Đức Mẹ hiện ra với cô hầu như hàng năm vào ngày 28-11. Cuộc hiện ra cuối cùng với cô vào ngày 28-11-1989. Trong những lần hiện ra ấy, Đức Mẹ tự phong là “Mẹ của Ngôi Lời”. Đức Mẹ đã nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc cầu nguyện, của thương yêu chính mình và tha nhân. Chúa Giêsu đã nói với Emmanuel rằng:
“Có nhiều người xem người khác chung quanh mình như là những kẻ bất lương. Thế gian đầy rẫy những thù hận. Các con sẽ được biết Cuộc Quang Lâm lần thứ hai của Ta sắp đến khi các con nhìn thấy nổ ra các cuộc chiến tranh tôn giáo. Bấy giờ, các con hãy biết rằng Ta đang đến.”
Đức Mẹ Hồng Phúc nói với các thị nhân:
“Mẹ đến để dọn đường cho Con của Mẹ, Mẹ đến vì điều tốt lành cho các con, nhưng các con lại không chịu hiểu. Thời gian còn lại rất ngắn ngủi và các con lại rất đãng trí. Các con lại bận tâm đến của cải thế gian, là những thứ đang qua đi. Mẹ nhìn thấy nhiều người trong đàn con cái Mẹ đang mất (linh hồn) và Mẹ đến để chỉ cho chúng thấy con đường Sự Thật.”
Các cuộc hiện ra tại Kibeho, Phi Châu, trong gian đoạn đầu tiên đã được Đức Giám Mục chuẩn nhận vào ngày 15-08-1988, và thế là các việc sùng kính công khai đã được phép làm. Giáo Hội còn tiếp tục cân nhắc các sự kiện này.
Ghi Chú: Alphonsine và Emmanuel đã bị giết trong cuộc tàn sát xảy ra tại Rwanda.
ĐỨC MẸ KIBEHO: NHỮNG CUỘC HIỆN RA Ở RWANDA
Bài của Roy Abraham Varghese
Các cuộc hiện ra của Đức Mẹ tại Kibeho thuộc Rwanda, đây có lẽ là một đất nước nghèo nàn nhất tại Phi Châu (bởi đất nước này có nhiều đồi núi, nên người ta coi nó như là nước ‘Thụy Sỹ của Phi Châu). Những cuộc hiện ra của Đức Mẹ được 7 thị nhân chính chứng kiến đều có nhiều nét đặc thù chung với các thị kiến Khải Huyền trong quá khứ. Như trong các cuộc hiện ra vào thế kỷ 19 tại Pháp, tại Fatima (Bồ Đào Nha) và tại Akita (Nhật Bản), Đức Trinh Nữ đã loan báo hiểm họa đẫm máu theo một tầm mức khủng khiếp. Hơn thế nữa, như tại Mễ Du, chính các cuộc hiện ra đã diễn ra ngay trong vùng mà chỉ trong một thời gian ngắn ngủi đã trở nên đồng nghĩa với nạn diệt chủng và tàn sát có tính cách hệ thống xảy ra nơi này nơi kia trên thế giới.
Các lời cảnh báo được đưa ra tại Rwanda không những có tinh chất tiên tri mà còn chính xác không thể nào lầm lẫn được, và, bởi vì người ta không để ý đến, nên vận mệnh đất nước này dường như đã được định đoạt. Rốt cuộc, Đức Trinh Nữ thậm chí đã phải thúc bách các thị nhân hãy chạy trốn khỏi quê cha đất tổ của mình trước khi các cuộc chiến tranh diễn tiến xa hơn nữa.
Các cuộc hiện ra đã bắt đầu vào ngày 28 tháng 11 năm 1981, lúc Alphonsine Mumureke, là một học sinh mới 16 tuổi đang theo học tại một trường dòng Công Giáo, cô đã nghe thấy một tiếng gọi “Con gái của Mẹ ơi!” nói với cô khi cô đang giúp việc tại phòng ăn. Cô bước ra khỏi phòng ăn và thấy một phụ nữ đẹp mặc áo trắng ở hành lang. Khi Alphonsine hỏi: Bà là ai, người phụ nữ đã trả lời: “Ta là Mẹ của Ngôi Lời.”, nói bằng tiếng Kinyarwanda là ngôn ngữ thổ dân của người Rwanda. Đức Trinh Nữ đã hỏi cô thích các tôn giáo nào, Alphonsine đã trả lời: “Con yêu Chúa và Mẹ của Người, là Đấng đã ban cho chúng con Chúa Con là Đấng đã cứu vớt chúng con.” Đức Trinh Nữ đã khen cô, và nói rằng Mẹ mong muốn các bạn hữu của cô có đức tin mạnh mẽ hơn, vì nhiều người trong số bạn của cô không có đủ đức tin.
Sau đó Mẹ đã yêu cầu Alphonsine gia nhập vào một nhóm tông đồ giáo dân được gọi là “Đạo Binh Xanh của Đức Mẹ” (Legio Maria), và Mẹ còn nói rằng Mẹ mong muốn được yêu thương và tin tưởng như một người mẹ, để Mẹ có thể dẫn đưa các chư dân đến với Thánh Tử của Mẹ là Chúa Giêsu (Đạo Binh Xanh của Đức Mẹ - Legio Maria – là một trong các tổ chức giáo dân Công Giáo rộng lớn nhất trên thế giới; Edel Quinn, là một trong các nhà tiên phong của phong trào Legio ở Ái Nhĩ Lan, đã tận hiến đời mình cho công việc của Đạo Binh Xanh tại quốc gia láng giềng của Kenya). Sau đó, Đức Trinh Nữ đã dịu dàng bay lên trời cho đến khi Mẹ khuất khỏi tầm mắt của em. Khi Mẹ biến đi, Alphonsine đã buông mình xuống mặt đất và không còn biết gì nữa trong khoảng 15 phút.
Những đứa trẻ khác đã nghe thấy Alphonsine tham dự vào cuộc đối thoại nên tò mò muốn biết điều gì đã xảy ra. Khi Alphonsine thuật lại trải nghiệm của mình, cả các bạn bè của cô cũng như các nữ tu đã tỏ ra nghi ngờ và khinh miệt. Alphonsine đã thị kiến một buổi Đức Trinh Nữ hiện ra khác nữa vào ngày kế tiếp, trong ngày ấy, cô đã được Đức Trinh Nữ bảo rằng Mẹ thích con cái của Mẹ nhận Mẹ là người mẹ của họ. Một lần nữa cô lại rơi vào tình trạng hôn mê khi cuộc hiện ra kết thúc, và một lần nữa cô nói với những người khác về những gì đã xảy ra, nhưng cô lại chỉ gặp sự nhạo báng chế diễu tương tự. Các cuộc hiện ra tiếp tục cho đến tháng 12. Hầu hết đám con gái đều chế nhạo Alphonsine, thậm chí còn quăng ném chuỗi hạt Mân Côi vào cô trong các lần Đức Mẹ hiện ra với cô, nhưng có một số người đã cầu xin cho người khác cũng được tham dự vào cảm nghiệm ấy, ngõ hầu họ nhận ra được Alphonsine có trung thực hay không.
Vào ngày 12 tháng Giêng năm 1982, những lời cầu nguyện ấy đã được đáp lại, và Anathalie Mukamazimpaka, một thiếu nữ 16 tuổi đã là một thành viên của Đạo Binh Xanh của Đức Mẹ, đã được thị kiến một cuộc hiện ra của Đức Trinh Nữ. Các Sứ Điệp mà cô nhận được đều tập trung vào việc cầu nguyện, khiêm nhường và hy sinh hãm mình. Kể từ khi Anathalie bắt đầu được thị kiến các cuộc hiện ra, hầu hết các người trong cộng đoàn đều chấp nhận sự trung thực của Alphonsine. Các cuộc hiện ra tiếp theo bấy giờ đã bắt đầu biến đổi đời sống tinh thần của các học sinh. Vào ngày 22 tháng 3, còn có một học sinh khác tên là Maria Clare Mukangara 22 tuổi cũng báo cáo rằng cô đã được trông thấy Đức Trinh Nữ một cách tỏ tường. Cô đã là một trong số những kẻ nhạo báng hăng hái nhất và bây giờ cô cầu xin cho sự tha thứ vì cô đã không tin. Cô nói rằng Đức Trinh Nữ muốn mọi người hãy suy gẫm về Cuộc Khổ Nạn của Chúa Giêsu và nỗi đau buồn của Mẹ Người, đồng thời cũng xin mọi người hãy lần hạt Mân Côi và lần hạt Bảy Sự Thương Khó hầu nhận được ơn sám hối.
Giờ đây, tin tức về các cuộc hiện ra của Đức Trinh Nữ đã tỏa lan ra khắp đất nước Rwanda và có nhiều khách hành hương đến Kibeho từ khắp các miền của đất nước. Để phục vụ cho hàng trăm người tham quan, có các bục đặc biệt cho các thị nhân đứng nói chuyện được dựng nên trong sân của tu viện và các đám đông người có thể nhìn thấy các thị nhân khi họ đi vào trạng thái xuất thần, thường trải qua ba hay bốn tiếng đồng hồ. Các thiếu nữ có thể cất tiếng hát hay lần hạt Mân Côi cho đến lúc Đức Trinh Nữ hiện đến theo thời gian đã được định sẵn.
Có 4 người khác cũng bắt đầu trông thấy Chúa Giêsu và Mẹ Maria. Stephanie Mukamurenzi, một thiếu nữ 14 tuổi, đã bắt đầu trông thấy Đức Mẹ vào ngày 25 tháng 03 năm 1982, đồng thời nhận được các Sứ Điệp nói về ăn năn sám hối, hoán cải và tiết dục. Vào ngày Mùng 02 tháng 06, Agnes Kamagaju, 22 tuổi, lần đầu tiên trông thấy Đức Trinh Nữ; trong những tháng đó, cô cũng còn được thấy Chúa Giêsu. Chúa Giêsu kêu gọi mọi người hoán cải, cầu nguyện và đặc biệt yêu cầu giới trẻ hãy giữ cho thân xác mình được thánh thiện. Dường như điều cuối cùng này là một cảnh báo về cơn dịch bệnh liệt kháng (AIDS) và cảnh báo về một đường lối hủy hoại đất nước sẽ cắt ngang qua Rwanda.
Vào ngày 02 tháng 07, có một cậu bé 15 tuổi là người ngoại giáo và thất học tên là Segatashya (là người sau này nhận lấy tên Thánh là Emmanuel) đã thấy và đã được nghe một người đàn ông đẹp trai 30 tuổi – Chúa Giêsu – dạy cho cậu đọc Kinh Lạy Cha, các kinh và giáo lý Công Giáo căn bản khác. Qua Emmanuel, Chúa Giêsu yêu cầu cầu nguyện, ăn năn sám hối và chuẩn bị bởi vì cuộc chung tận của thế gian đang nhanh chóng gần đến rồi. Người cũng nói về sự lầm lạc của nhiều Linh Mục nhằm duy trì lòng trung thành đối với lời khấn nguyện ơn gọi của các Linh Mục.
Vào ngày 15 tháng 09, Mẹ Maria đã hiện ra với Vestine Salina, một phụ nữ Hồi Giáo 24 tuổi. Vestine đã được yêu cầu đóng một vai trò của một mục tử dẫn đưa các chư dân đến với Thiên Chúa và Thiên Đàng. Đức Trinh Nữ đã yêu cầu mọi người lần hạt Mân Côi hàng ngày và tưởng nhớ đến Bảy Sự Thương Khó của Đức Mẹ khi lần hạt.
Đám đông dân chúng đã quan sát 7 thị nhân khi họ đi vào trạng thái xuất thần trải qua nhiều giờ. Trong tình trạng xuất thần, các thị nhân không bị tác động khi các quan sát viên chọc mũi dao vào họ, hay dí lửa nến vào họ, hoặc chiếu ánh sáng chói lòa vào mắt họ; họ cũng trở nên “cứng đờ” đến nỗi chân tay họ khó mà động đậy được. Đôi lúc trong các cuộc hiện ra, các đám đông tụ tập cũng được thị kiến hiện tượng siêu nhiên khác biệt nhau, như phép lạ mặt trời (bao hàm mặt trời nhảy múa và chiếu tỏa ra nhiều màu sắc như tại Fatima), các ngôi sao xếp thành hình Thánh Giá vào ban đêm, các hạt mưa tầm tã rơi xuống khi các thị nhân xin Đức Trinh Nữ chúc lành cho đám đông (các trường hợp khỏi bệnh được báo cáo là do nước mưa hứng được). Sau khi cảnh báo các khách tham quan về điều sẽ xảy ra, các thị nhân đi vào tình trạng hôn mê vì thời gian họ trải qua các giai đoạn được đưa đến Thiên Đàng, Luyện Ngục và Hỏa Ngục.
Họ cũng được cho thấy một thị kiến về tương lai tàn khốc đang chờ đợi đất nước Rwanda: các con sông đầy máu, cây cối bốc cháy, vô số các dãy xác người chết, nhiều xác người không còn đầu. Tương lai thấp thoáng này, đã được đưa ra trong một buổi hiện ra lâu đến 8 giờ vào ngày 15-08-1982, như vậy đã gây ra một tác động kinh hoàng cho các thị nhân và thậm chí còn gây cho các khách tham quan phải sửng sốt. Các thị nhân đã được cho biết rằng sẽ có “một dòng sông máu” nếu Rwanda không trở về với Chúa.
Các cuộc hiện ra vẫn tiếp tục trong nhiều quãng thời gian khác nhau cho từng thị nhân: Marie Claire cho đến ngày 15 tháng 09; Stephanie cho đến ngày 15 tháng 12 năm 1982; Emmanuel đến ngày 03 tháng 04 năm 1983; Agnes cho đến ngày 25 tháng 09 năm 1983; Anathalie đến ngày 03 tháng 12 năm 1983; Vestine cho đến ngày 24 tháng 12 năm 1983 và Alphonsine thì suốt cho đến ngày 28 tháng 11 năm 1989. Đức Giám Mục Jean Baptiste Gahamanyi thuộc giáo phận Butare, mà Kibeho thuộc giáo phận này, đã chỉ định ra một ủy ban điều tra gồm các bác sĩ, các chuyên gia tâm thần và các nhà thần học trong tháng 03-1982. Ngày 15-08-1988, Đức Giám Mục cũng cho phép các việc sùng kính công khai ngay tại nơi Đức Mẹ hiện ra.
Cuộc nội chiến tại Rwanda đã khởi sự trong năm 1991 và làm thiệt hại hơn một triệu sinh mạng. Thị nhân Marie Claire là một trong số người bị thảm sát. Toàn bộ gia đình của Alphonsine đã bị giết, nhưng chính bản thân cô lại thoát được. Các thị nhân khác được người ta tin rằng họ đang sống trong các trại tị nạn, nhưng cũng có sự suy đoán rằng Emmanuel có lẽ đã bị giết chết rồi. Đức Giám Mục Gahamanyi là một trong hàng trăm tu sĩ đã bị giết trong cuộc nội chiến này. Hàng ngàn tử thi bị vứt xuống sông đang trở nên thối rữa. Hàng ngàn các thi thể khác, trong đó có nhiều thi thể bị chặt đầu, là những phần còn lại, không được chôn cất.
MÔ TẢ VỀ ĐỨC MẸ.
Alphonsine: “Đức Mẹ thật sự không da trắng như chúng ta thường thấy trong các hình ảnh. Tôi không thể định rõ được màu da của Mẹ, nhưng không gì có thể so sánh với vẻ đẹp của Người.”
CÁC SỨ ĐIỆP

Ban cho Marie Claire: “Mẹ không chỉ quan tâm tới Rwanda hoặc cho toàn cõi Phi Châu. Mẹ quan tâm và hướng về cả thế giới. Thế giới này đang ở trên bờ diệt vong.”
“Mẹ đến đây để dọn đường cho Con của Mẹ, cho sự tốt lành của các con, mà các con lại không muốn hiểu. Thời gian còn lại rất ngắn ngủi và tâm trí các con thì để ở đâu đâu. Các con bị của cải của cái thế giới mau qua này làm cho các con mất trí rồi. Mẹ đã thấy được nhiều con cái của Mẹ bị mất phần rỗi và Mẹ đến để chỉ cho họ con đường sự thật.”
Ban cho Alphonsine: “Mẹ yêu thích trẻ con chơi đùa với Mẹ, bởi vì đó là một sự biểu lộ đẹp đẽ của niềm tin và tình yêu. Hãy cảm nhận như trẻ nhỏ bởi vì Mẹ cũng yêu thương và chiều chuộng các con. Không một đứa trẻ nào lại sợ hãi người mẹ của chúng cả! Mẹ là mẹ các con. Các con không phải sợ gì Mẹ mà các con hãy yêu mến Mẹ.”
Trong buổi hiện ra lần cuối cùng: “Mẹ yêu các con, Mẹ yêu các con, Mẹ yêu các con rất nhiều. Đừng bao giờ quên tình yêu của Mẹ dành cho các con khi Mẹ đến giữa các con. Những Sứ Điệp này sẽ không những chỉ là điều tốt lành cho ngày hôm nay, mà còn cho tương lai nữa.”
Ban cho Anathalie: “Hãy tỉnh thức và đứng dậy. Hãy chăm chú gội rửa và cải thiện bản thân mình. Chúng ta phải dâng mình cho việc cầu nguyện. Chúng ta phải mở mang trong lòng mình các nhân đức bác ái, nhân đức vì lợi ích của người khác và nhân đức khiêm nhường.”
Ban cho Stephanie: “Hãy sám hối, cầu nguyện, thay đổi cuộc sống.”
Ban cho Vestine: “Bước đường đi tới Thiên Đàng là phải qua một con đường hẹp, không dễ vuợt qua. Còn con đường đến với Satan thì rộng rãi. Các con sẽ rảo bước đến, các con sẽ chạy đến vì nó không có chướng ngại vật nào.”
Ban cho Emmanuel: “Chẳng còn nhiều thời gian để chuẩn bị cho Cuộc Phán Xét Chung Tận đâu. Chúng ta phải thay đổi đời sống mình, phải từ bỏ tội lỗi. Hãy cầu nguyện và và chuẩn bị cho cái chết của mình và cho ngày tận thế. Chúng ta phải sẵn sàng khi vẫn còn thời gian. Những ai sống ngay lành sẽ được lên Thiên Đàng. Còn những ai hành động xấu xa thì họ sẽ tự kết tội mình mà không còn hy vọng được cứu xét. Đừng đánh mất thời gian để làm điều tốt lành và cầu nguyện. Không còn nhiều thời gian nữa và Chúa Giêsu sẽ đến.”
Chúa Giêsu nói với Agnes: “Giới trẻ không được dùng thân xác mình như một dụng cụ khoái lạc. Chúng đang dùng mọi biện pháp để yêu và để được yêu, nhưng chúng lại quên rằng tình yêu thực sự từ Thiên Chúa mà đến. Thay vì để phụng sự Thiên Chúa, chúng lại đi phụng sự cho tiền bạc. Chúng phải làm cho thân xác chúng trở nên một công cụ dành vào việc làm vinh quang cho Thiên Chúa chứ không phải là một vật thể khoái lạc để phụng sự con người. Chúng phải cầu khẩn với Mẹ Maria để chỉ bảo cho chúng con đường đúng đắn dẫn đến Thiên Chúa.”
Chúa Giêsu nói với Emmanuel: “Ta là Giêsu, là Đấng có trước tất cả nhân lọai.” “Ta chẳng trắng mà cũng chẳng đen; nói đơn giản, Ta là Thiên Chúa.”
“Các Linh Mục và các tu sĩ không chăm sóc đầy đủ cho những người bệnh hoạn về thể lý và đạo đức. Một khi họ đã tự do tuyên khấn giữ mình thanh sạch, họ phải tuân giữ một cách trung thành.”
“Làm thế nào mà một người có thể nói rằng mình yêu mến Chúa Giêsu, thờ lạy Người, mà lại sống bên ngoài Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội của Mẹ Người? Mẹ Ta là Mẹ của thế gian.”
“Thế gian sẽ đến hồi kết cuộc. Hãy chuẩn bị khi còn thời gian. Khi Ta trở lại mặt đất, các linh hồn sẽ tìm thấy thân xác trước đây đã có, bấy giờ con người sẽ mang theo mình các dữ liệu thông tin về chính bản thân mình. Đừng để mất thời gian dùng làm việc thiện. Không còn nhiều thời gian nữa đâu.”
“Có quá nhiều người đối xử với các người thân cận của mình một cách bất lương. Thế giới thì đầy rẫy hận thù. Các con sẽ biết được Cuộc Quang Lâm lần thứ hai của Ta đang đến gần, khi các con xem thấy bạo động tôn giáo, các học thuyết vô thần, hay các cuộc chiến tranh sắc tộc. Bấy giờ, hãy biết rằng Ta đang đến.”
Kết luận
Lời kêu gọi của Đức Mẹ tại Kibeho là một lời kêu gọi cùng với toàn bộ Sứ Điệp của Đức Mẹ Maria về cầu nguyện, ăn năn sám hối và lần chuỗi Mân Côi, nhằm mục đích cho sự hoan cải ngày nay và trong tương lai sẽ làm dịu đi các sự kiện đe dọa đến hòa bình và an ninh thế giới. Nguyện xin Đức Mẹ Kibeho cầu thay nguyện giúp cho lợi ích của chúng con, vì sự Vinh Thắng của Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria.
Bài viết trên đây được trích từ bài “Đấng được Thiên Chúa sai đến” (God Sent), Nhà Xuất Bản Crossroad, phát hành năm 2000, của Lm. Roy Abraham Varghese, là một tác giả chuyên viết về các lãnh vực tôn giáo, khoa học và Thánh Mẫu Học.
ĐỨC MẸ RWANDA
Bài của Michael K. Jones
Đức Tổng Giám Mục Augustin Misago của Giáo Phận Gilongoro, Rwanda, đã đưa ra một lời tuyên bố mang hàm ý “phán quyết dứt khoát” về các cuộc hiện ra của Đức Trinh Nữ Maria tại Kibehô đã được báo cáo là xác thực. Tòa Thánh Vatican đã công bố công khai bản tuyên bố của Đức Tổng Giám Mục vào ngày 29-06-2001.
Vào tháng 11 năm 1981 và năm 1989 bắt đầu có những cuộc hiện ra tại Kibeho. Các thị nhân có tên là:
1- Alphonsine Mumureke, sinh năm 1965.
2- Marie-Claire Mukangango, sinh năm 1961.
3- Stephanie Mukamerenzi, sinh năm 1968.
4- Agnes Kamagaju, sinh năm 1960.
5- Emanuel Segatashya, sinh năm 1967.
6- Vestine Salima, sinh năm 1960.
Các cuộc hiện ra như trên vẫn còn xa so với nhiều cuộc hiện ra được nói đến trong đề mục này, nên tôi chỉ nói đến một ít cuộc hiện ra mà thôi.
Vào ngày 15-05-1982, sau 8 giờ thị kiến, các thị nhân thấy nhiều người giết chóc lẫn nhau, thấy các con sông máu, các tử thi không được chôn cất, nhiều cây cối bốc cháy. Agnes thấy các biến cố đau thương và khủng khiếp ấy vào năm 1983 trong các buổi hiện ra của Chúa trước đám rất đông người.
Thị nhân của Mễ Du, tại Mễ Du, Ivanka thấy các sự kiện khủng khiếp đã xảy ra tại Châu Phi trong một thị kiến vào ngày 25-06-1993. Đức Mẹ đã nói với cô rằng biến cố khủng khiếp ấy sẽ sớm bắt đầu, nhưng bằng lời cầu nguyện có thể ngăn lại được.
Vào tháng Hai năm 1994, Đức Mẹ chuẩn bị cho Agnes trong một cuộc hiện ra riêng với cô về các biến cố đau thương. Trong cuộc thị kiến ấy, Agnes thấy cha mẹ mình bị giết hại tại Kibeho.
“Không còn nhiều thời gian chuẩn bị cho Cuộc Phán Xét Chung Thẩm. Chúng ta phải thay đổi đời sống và từ bỏ tội lỗi. Hãy cầu nguyện và chuẩn bị cho ngày chết của mình và ngày tận thế. Chúng ta phải chuẩn bị khi vẫn còn thời gian. Những ai làm điều thiện sẽ được lên Thiên Đàng. Nếu họ làm điều ác, họ sẽ tự kết án chính mình mà không có hy vọng được thông cảm. Đừng để mất đi thời gian để làm việc thiện và cầu nguyện. Chẳng còn nhiều thời gian đâu và Chúa Giêsu sẽ quang lâm.”
Theo lời các thị nhân: nếu Rwanda không trở về với Thiên Chúa, sẽ có một “giòng sông máu”.
Từ tháng Tư cho đến tháng Sáu năm 1994, các nhà lãnh đạo thuộc bộ tộc Hutu tổ chức ra một cuộc diệt chủng có tính hệ thống đã hủy diệt khoảng 800.000 người Tutsi và người Hutu ôn hòa. Một cuộc chơi trò giết chóc được thực hiện phần lớn bằng dao rựa và gậy gộc. Thị nhân Marie-Claire đã bị giết tại thị trấn Byumba vào mùa hè năm 1994. Emmanuel đã chết trong lúc đào thoát khỏi Kigali.
Các cuộc hiện ra cho các thị nhân đã chấm dứt năm 1983, Alphonsine vẫn còn được Đức Mẹ hiện ra với cô vào ngày 28 tháng 11 hàng năm. Cuộc hiện ra cuối cùng với cô vào ngày 28-11-1989.
Đức Mẹ đã hiện ra với tước hiệu “Mẹ của Ngôi Lời”. Mẹ thường nói về tầm quan trọng của cầu nguyện và lần hạt Mân Côi. Trong một buổi hiện ra, Mẹ đã giải thích lý do Mẹ đến đây: “Mẹ đến để dọn đường cho Thánh Tử Mẹ, cho lợi ích của các con, nhưng các con lại không muốn hiểu. Thời gian còn lại rất ngắn ngủi mà các con lại lơ là. Lòng trí các con rối bời vì các thứ hàng hóa của thế gian đang qua đi. Mẹ đã thấy nhiều con cái Mẹ đang mất linh hồn và Mẹ đến để chỉ ra cho chúng con đường thật.” Đức Mẹ cũng bảo cho các thị nhân về sự quan trong của lòng yêu thương người khác.
Trong một cuộc hiện ra, Chúa Giêsu nói với Emmanuel: “Quá nhiều người đã chà đạp những người lân cận của mình một cách bất lương. Thế gian đầy rẫy hận thù. Các con sẽ biết được ngày Quang Lâm lần thứ hai của Ta đã cận kề khi các con thấy bùng nổ ra các cuộc chiến tranh tôn giáo. Bấy giờ, hãy biết rằng, Ta đang đến.”