Pages

Hiển thị các bài đăng có nhãn Truyện hay. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Truyện hay. Hiển thị tất cả bài đăng

24/9/09

Người Ăn Cắp Cừu

"Ai ai cũng có bí mật và những chuyện không thể cho người khác biết "

Chào bạn, có thể bạn đã từng làm một chuyện gì đó rất là gian ác, và không thể tha thứ cho bản thân mình. Và chuyện đó đã khiến bạn lúc nào cũng ray rứt và đau buồn. Nhưng bạn hãy tin vào tình yêu bao la của Thiên Chúa. Dù bạn có tội lỗi cách mấy, có làm biết bao đều sai phạm. Chỉ cần bạn thật lòng thống hối, và quyết tâm làm lại cuộc đời, trở về bên Chúa. Thì bạn có thể trút bỏ gánh nặng, đừng nên lo lắng về chuyện đã qua, hãy sống thật tốt để quá khứ không còn là mối dây ràng buộc chính bạn, mà thoát khỏi để trở thành một người hòan toàn mới. Trên đời này ai mà không sai phạm, nhưng biết sai chịu sửa thì đó mới là điều đáng quý . Sau đây là một câu chuyện nói về tình cảnh giống như bạn bấy giờ.

người ăn cắp cừu

Tại một miền quê bên Mỹ, vào thời kỳ lập quốc. Có hai anh em nhà kia bị bắt quả tang đang ăn cắp cừu. Dân trong làng đã mở tòa án nhân dân để trừng phạt .

Sau khi nghị án mọi người đều đồng thanh cho khắc trên trán của tội nhân hai chữ viết tắt S.T có nghĩa là "người ăn cắp cừu ".

Một trong hai người ăn trộm đã không chịu nổi sự sỉ nhục, đã trốn sang một vùng đất khác để chôn chặt dĩ vãng của mình. Nhưng anh không thể nào xóa nhòa hai chữ viết tắt trên trán được. Bất cứ người lạ mặt nào cũng đều tra hỏi anh về ý nghĩa của hai chữ. Lại một lần nữa anh rời bỏ nơi cư ngụ mới để tiếp tục lang thang và cuối cùng mòn mỏi trong cay đắng, anh đã bỏ mình nơi đất khách quê người.

Trong khi người anh đã bị sự nhục nhã gậm nhấm đến độ phải trốn suốt cả cuộc đời, thì người em lại tự nói với mình: "Tôi không thể bỏ trốn chỉ vì ăn cắp mấy con cừu. Tôi phải ở lại đây và tạo lại sự tin tưởng nơi những người xung quanh và chính tôi".

Với quyết tâm đó anh đã ở lại trong xứ sở của mình. Không mấy chốc, anh đã xây dựng cho mình một sự nghiệp cũng như danh thơm của một người thanh liêm chính trực.

Nhưng dù năm tháng đã qua đi, hai chữ S.T vẫn còn ghi đậm trên vầng trán của anh...Ngày kia, có một người lạ mặt hỏi một cụ già trong làng về ý nghĩa của hai chữ viết tắt ấy. Cụ già suy nghĩ một hồi rồi trả lời: " Tôi không nhớ rõ lai lịch của hai chữ viết tắt ấy, nhưng cứ nhìn vào cuộc sống của người đó, tôi nghĩ rằng hai chữ viết ấy có nghĩa là Thánh thiện".

Ý NGHĨA:

Hãy tin ở những người xung quanh của bạn vì bạn hữu là điều quan trọng cho một cuộc sống hạnh phúc.

Hãy tin ở hiện tại vì quá khứ đã qua đi.

Hãy tin vào lòng thương của Thiên Chúa vì Ngài tha thứ cho bạn. Vậy bạn hãy tha thứ cho chính mình và người khác.

" Chính lúc thứ tha là khi được tha thứ"

Thiên Chúa không bao giờ thất vọng về chúng ta, và Ngài mời gọi chúng ta cũng đừng thất vọng về chính mình. Mỗi một may mắn là một dịp tiện để chúng ta dâng lời cảm tạ và chúc tụng Chúa. Mỗi một thất bại và đau khổ, là khởi đầu của một nguồn ơn dồi dào hơn. Mỗi một vấp phạm là bàn đạp để chúng ta vươn cao hơn. Bởi vì trong tất cả mọi sự Thiên Chúa luôn yêu thương chúng ta .

Hãy tin nơi bạn vì bạn là hình ảnh của Thiên Chúa.

Và phương thế hữu hiệu nhất chính là cầu nguyện . Bạn hãy dâng lên Thiên Chúa lời nguyện xin:

Lạy Chúa , tội lỗi luôn đè nặng trên lương tâm và giam giữ con, chỉ có Chúa mới có thể giải thoát con. Xin tha thứ cho con và giữ gìn con trong ơn nghĩa Chúa, để con luôn cảm nhận được an bình tự do đích thực mà Chúa sẽ ban cho con . Amen

Con Người Của Sự Cầu Nguyện

Smith Wigglesworth

Tôi hiểu được Đức Chúa Trời nhờ Lời Ngài. Tôi không thể hiểu được Đức Chúa Trời nhờ cảm xúc hay ấn tượng của tôi. Tôi không thể hiểu được Đức Chúa Trời nhờ sự nhậy cảm của bản thân. Tôi chỉ có thể nhận biết Ngài nhờ Lời của Ngài.

Rất nguy hiểm nếu sống noi theo các cảm xúc của mình. chúng ta được cứu không nhờ cảm xúc, mà nhờ Lời Đức Chúa Trời. Sự cứu rỗi thì không thể nào lay chuyển nổi, còn cảm xúc thì hay đổi thay.

Wigglesworth (Uígs-vớt) sẵn lòng đồng cảm của mình cho những tội nhân, những kẻ bệnh, những người bị ức chế, và những người bị quỉ ám, bởi vì ông yêu mến Đức Chúa Trời và dành nhiều thời gian ở trong sự hiện diện của Ngài.

Có ai đó một lần hỏi Uígs-vớt rằng ông thường dành thời gian mình cầu nguyện bao lâu. Ông đáp: "Tôi rất ít khi dành thời gian cầu nguyện nhiều hơn nửa tiếng một lần, nhưng tôi cũng không bao giờ sống nửa tiếng mà không cầu nguyện." Cầu nguyện là một phần sự sống của ông. Đó là điều mà ông ưa thích nhất. Đó là một trong những bí quyết của quyền năng của ông.

Khi người ta nhận được sự chữa lành ngay trong các buổi nhóm của Uígs-vớt, thì đó không chỉ là kết quả của sự đáp lời của Đức Chúa Trời cho lời cầu nguyện, bởi vì rất thường xuyên là thay vì cầu nguyện cho những nhu cầu, Uígs-vớt giảng Lời Chúa cho họ.

Khi Phi-e-rơ và Giăng đến đền thờ để cầu nguyện, họ đụng đầu với một người bệnh vô phương cứu chữa, bị què từ khi lọt lòng mẹ, và người ta đem ông ta đến đền thờ để ăn xin. Anh ta tưởng nhận được tiền bố thí của Phi-e-rơ và Giăng. Nhưng thay vào đó họ lại nói: "Hãy nhìn xem chúng ta." (Công vụ 3:4).

Có thể là chúng ta sẽ nói: "Có thể rút ra kết luận gì ở đây? Dù sao đi nữa thì họ là ai nào? Chắc họ phải có thần kinh vững lắm". Nhưng sau đó Phi-e-rơ nói ra những lời tuyệt vời sau:

Bạc và vàng thì ta chẳng có, song điều ta có thì ta cho ngươi: nhân danh Đức Chúa Jê-sus ở Na-xa-rét hãy đứng dậy và bước đi. Phi-e-rơ nắm tay hữu người đỡ dậy. Tức thì bàn chân và mắt cá người trở nên cứng vững; người liền nhảy, đứng lên và bước đi cùng hai người vào đền thờ, vừa đi, vừa nhẩy, vừa ngọi khen Đức Chúa Trời. (Công vụ 3:6-8).

Hãy để ý những lời đó "... song điều ta có thì ta cho ngươi" (Công vụ 3:6). Đó là sự phục vụ ban cho. Công vụ của Uígs-vớt đã ở cũng chính mức độ đó.

Có một lần ông kể cho tôi, rằng ông đã trải qua một trường hợp tuyệt như thế nào khi dành thời gian đến thăm một thầy tu ở nước Anh. Ông và người tu sĩ ngồi và nói chuyện với nhau sau bữa ăn tối. Chắc chắn chủ đề của câu chuyện là về lời nhờ cầu nguyện giúp, vì con người đáng thương đó không có cả hai chân. Những chân giả thời đó thật khác xa với những chiếc xe lăn tay và nạng chống thời bây giờ.

Uígs-vớt đột nhiên nói với người đàn ông đó (ông thường phục vụ kiểu như vậy trong các trường hợp tương tự): "Sáng mai hãy đi mua lấy đôi giầy."

Người anh em đáng thương kia đã thầm nghĩ rằng đó thật là một câu đùa đau lòng. Dù vậy, khi Uígs-vớt đi về phòng mình ngủ, thì Đức Chúa Trời phán với người thầy tu kia: "Hãy làm theo như đầy tớ Ta đã nói." Thật là một vinh dự làm sao cho bất kỳ ai - đầy tớ của Ta! Chính Đức Chúa Trời đã đánh đồng Mình với Uígs-vớt.

Đêm hôm đó người đàn ông kia không ngủ được. Ông ta dậy thật sớm vào thành phố và đến đợi ở cửa hàng giầy cho đến giờ mở cửa. Người chủ cửa hàng cuối cùng cũng đến mở cửa hàng. Người thầy tu vào trong và ngồi xuống.

Một chút sau có người giúp việc đến và hỏi: "Xin chào buổi sáng, thưa ngài, tôi có thể giúp gì được cho ngài không?"

Người đàn ông nói: "Vâng, anh làm ơn bán cho tôi một đôi giầy."

"Vâng, thưa ngài, cỡ nào và mầu nào?"

Người đàn ông lưỡng lự. Người giúp việc nhìn thấy tình trạng của ông ta và nói: "Xin lỗi ngài, chúng tôi không thể giúp gì cho ngài được."

"Không sao, anh bạn trẻ ơi. Tôi cần có một đôi giầy. Cỡ 8, mầu đen."

Người giúp việc đi lấy đôi giầy đã đặt hàng. Năm phút sau đó anh ta quay lại và trao chúng cho ông ta. Người này xỏ ống chân của mình vào trong giầy, và ngay lập tức cả cẳng chân và bàn chân được thành hình! Sau đó điều tương tự cũng xảy ra với cái chân kia!

Đối với Uígs-vớt điều đó hoàn toàn không bất ngờ chút nào. Ông đã trông đợi kết quả đó. Ông thường thích nhận xét: "Khi chuyện có liên quan đến Đức Chúa Trời, thì Ngài không thấy khác biệt giữa việc làm ra một chi thể mới hay là chữa lành một cái xương gẫy."

Giôn G. Leik - con người của sự chữa lành

Ro-berts Liar-don



"Tôi nói với họ (các bác sĩ): 'Thưa các ngài, tôi muốn để các ngài nhìn thấy một điều nữa. Hãy về bệnh viện của mình và chở đến đây một người bị bệnh viêm tuỷ. Hãy lấy những dụng cụ của mình và gắn chúng vào chân. Hãy chừa chỗ cho tôi có thể đặt tay lên chân anh ta. Các ông có thể gắn dụng cụ vào cả hai bên.'



Khi những dụng cụ đo đạc đã sẵn sàng, tôi đặt tay lên đầu gối người này và cầu nguyện bằng một cách giống như cách Mẹ Et-ter cầu nguyện [mẹ Et-ter là một tướng lĩnh của Đức Chúa Trời đi trước - BBT]: không phải là lời cầu nguyện lạnh nhạt bình thường, nhưng là tiếng kêu thống thiết của con tim lên Đức Chúa Trời. Tôi nói: 'Chúa ơi, hãy diệt chết căn bệnh của ma quỉ bằng quyền năng Ngài. để cho Đức Thánh Linh vận hành trong anh ta, để cho cái này sống trong anh ta."

Sau đó tôi hỏi: 'Thưa các ngài, điều gì xảy ra vậy?'

Họ đáp: 'mọi tế bào đều phản ứng'."

Nếu có con người nào từng sống và hành động trong sự tỏ ra "Đức Chúa Trời ở trong con người", thì con người đó chính là Giôn G. Leik (John G. Lake). Con người của mục đích, khải tượng, quyền năng và tính cách mạnh, ông chỉ có một mục đích trong đời - đem sự đầy trọn của Đức Chúa Trời đến mỗi con người.

Ông thường nói rằng bí quyết của quyền năng thiên thượng không phải ở tại việc làm, mà là ở hiện trạng. Ông tin rằng mọi cơ-đốc nhân đầy dẫy Đức Thánh Linh cần phải được thưởng thức (tận hưởng) một công vụ hệt như của Chúa Jê-sus khi Ngài sống trên đất, và hiện thực của sự đó có thể đạt được chỉ khi nào nhìn thấy được bản thân như cách Đức Chúa Trời nhìn.

Bóng đen của cái chết

Giôn Grêm Leik đã sống cả cuộc đời mình và hoàn thành công vụ của mình với sự hiểu biết thuộc linh đó.

Ông sinh ra 18 tháng ba năm 1870 tại Ôn-ta-riô, Canada. Là một trong mười sáu đứa con, ông từ bé đã cùng gia đình chuyển đến Solt-Sant-Mari, bang Mi-chi-gan, Mỹ.

Lần đầu tiên Leik được nghe giảng Tin lành tại buổi nhóm truyền giảng của Đạo quân Cứu rỗi (một tổ chức truyền giảng - BBT), khi ông mười sáu tuổi, và không lâu sau đó ông đã dâng đời sống mình cho Chúa. Mặc dù ông sống cuộc sống đạo đức lành mạnh, tim ông không thấy bình an, cho đến khi ông xin Chúa cứu ông. Sau này ông viết về cuộc gặp với Đức Chúa Trời của mình:

"Tôi đã dâng mình cho Ngài, ánh sáng từ trời tuôn tràn vào lòng tôi, và tôi đứng dậy thành một đứa con của Đức Chúa Trời, và tôi biết điều đó."

Bố mẹ của Leik là những con người mạnh mẽ, năng động với sức khoẻ tuyệt vời. Nhưng tà linh của bệnh tật và cái chết bao trùm lên toàn bộ phần còn lại của gia đình. Tám thành viên trong gia đình - bốn anh em trai và bốn chị em gái - đã chết vì bệnh. "32 năm trong gia đình thường xuyên có người ốm," - ông viết, - "Trong suốt thời gian đó bóng đen của bệnh tật luôn ám ảnh trên nhà chúng tôi... thời niên thiếu của tôi đầy ký ức về những bệnh tật, bác sĩ, người trông, bệnh viện, hòm áo quan, nghĩa trang và nấm mộ, về một gia đình đau đớn..."

Khoa học không đúng - Thái độ đúng đắn

Ngay từ khi còn trẻ Leik đã rất quan tâm đến khoa học và vật lý. Ông cũng thích hoá học, và thích làm thí nghiệm với các dụng cụ khoa học. Ông thậm chí đã kết thúc khoá học về ngành y, nhưng về sau bỏ những ham mê y học của mình.

Leik rất kỹ lưỡng trong các sự tìm kiếm cả trong khoa học và những vấn đề thuộc linh. Ông không ngừng nghiên cứu Kinh Thánh không chỉ để mà hiểu nó, mà còn để chứng minh sự chính xác của nó trong cuộc sống hàng ngày. Kết quả là Leik hành động, nói và thở trong luồng của sự sống phục sinh của Đức Chúa Trời.

Năm 1890, khi Leik 20 tuổi, một nông dân cơ-đốc nhân kể cho ông nghe về sự nên thánh. Sự tỏ ra này đã xuyên thấu tim ông, và ông coi đó như một công việc đã hoàn tất của Đức Chúa Trời trong đời mình. Về sự tỏ ra mới này Leik viết: "Tôi sẽ không bao giờ ngừng tôn vinh Chúa đã tỏ cho tôi chiều sâu... quyền năng của huyết Jê-sus. Sự xức dầu Thánh Linh tuyệt vời đã giáng xuống đời tôi."

Sau đó một năm, 1891, Leik chuyển đến Chi-ca-go và nhập học tại trường hầu việc giám lý. Tháng mười năm đó ông được bổ nhiệm vào Hội Thánh tại Pes-ti-go, bang Vis-con-xin nhưng ông từ chối đề nghị làm mục sư này. Ông cũng rời trường và chuyển đến Har-vey, bang Il-li-nois, là nơi ông lập tờ báo "Har-vey ci-ti-zen". Khi sống tại đó ông đã gặp người vợ tương lai của mình là Giên-ny Sti-ven.

Món quà "Giên-ny"

Giên-ny hợp với Giôn Leik thật lý tưởng. Chị rất biết vui đùa, suy nghĩ chín chắn, đức tin mạnh mẽ và sự nhạy bén thuộc linh sâu sắc. Một trong những sự phục vụ quan trọng của Giên-ny cho chồng mình là sự cầu nguyện và cầu thay. Leik đánh giá rất cao những lời khuyên và sự động viên của vợ.

Nhưng sau đó hai năm bệnh tật lại lẻn được vào gia đình Leik. Các bác sĩ chẩn đoán Giên-ny bị lao và đau tim. Vì cớ rối loạn nhịp tim mà có khi chị ngã bất tỉnh. Để giữ nhịp tim, chị phải dùng những thuốc mạnh, và cuối cùng chúng khiến chị gần thành người tàn phế.

Cuối cùng, theo lời khuyên của các bác sĩ, Leik đưa gia đình mình trở về lại Solt-Sant-Mari, bang Mi-chi-gan, và anh bắt đầu làm nghề buôn bất động sản. Nhưng trạng thái của Giên-ny ngày một xấu đi, và năm 1898 các bác sĩ nói rằng không còn làm gì được hơn cho chị nữa.

Nào hãy cùng quyết chí!

Leik đã đối đầu với khủng hoảng cuộc đời mình. Quyền năng Đức Chúa Trời ở đâu? Cả gia đình anh khổ sở vì bệnh tật, Những người anh em trai là người tàn phế vì chảy máu nội tạng trong 22 năm. Chị của anh 33 năm ung thư vú. Người chị khác đang chết vì bệnh máu. Và bây giờ người thân cận nhất của anh, Giên-ny, cũng gần kề cái chết.

Nhưng bản thân Leik trước kia đã từng nếm trải quyền năng chữa bệnh của Đức Chúa Trời. Thời trẻ anh bị bệnh thấp khớp. Khi cái đau ở chân đến mức quá độ, anh đi đến Nhà Chữa bệnh của Giôn A-lech-xan-đrơ Đau-vi (một tướng lĩnh của Đức Chúa Trời đi trước khác - BBT) ở Chi-ca-go. Tại đó ông già đã đặt tay lên anh, và quyền năng Chúa giáng trên anh, và đôi chân anh tức khắc khoẻ mạnh.

Sau sự lành bệnh của mình Leik chở người em trai tàn phế đến Nhà của Đau-vi, và cậu ta cũng được lành. Khi người ta đặt tay lên, bệnh máu biến mất, và cậu bật dậy khỏi giường bệnh của mình.

Sau đó anh chở người chị đang chết dần vì bệnh ung thư vú đến Chi-ca-go. Khi đến đó người chị còn một chút nghi ngờ, nhưng sau khi được nghe thấy Lời Chúa được rao giảng với quyền năng mạnh mẽ như vậy thì đức tin của chị ta lớn lên - và chị đã được chữa lành. Cơn đau hết ngay, và khối u lớn xẹp mất đi trong vài ngày, còn những khối u nhỏ thì biến mất ngay, và Đức Chúa Trời đã phục hồi lại chỗ ngực dị dạng của chị.

Cái chết? "Sẽ không có điều đó!"

Người chị khác của anh vẫn còn bệnh nặng dù đã nhiều lần cầu nguyện. Anh cũng đang chuẩn bị chở cô đến Nhà Chữa bệnh, nhưng trước khi anh kịp làm điều đó thì mẹ anh gọi điện đến, và báo rằng chị anh đang chết, và nếu anh còn muốn nhìn thấy cô ta thì phải đến gấp. Khi Leik đến, cô ta đã bất tỉnh, mạch không còn thấy, và căn phòng đầy những người khóc lóc. Đầy xúc động bởi tất cả những cái đó, Leik nhìn vào đứa bé con của chị ta đang còn nằm trong nôi, và thầm nghĩ: "Chị ta không được chết! Sẽ không có điều đó!" Sau này ông viết về sự rung cảm sâu sắc này:

"Không có một lời nào có thể diễn đạt cho người khác tiếng gào thét trong tim tôi và nỗi căm thù cái chết và bệnh tật mà Đức Chúa Trời đã đặt vào trong lòng tôi. Cảm tưởng như chính cơn giận của Đức Chúa Trời xâm chiếm tâm hồn tôi!"

Leik đi lại trong căn phòng, và lòng anh hướng tới người nào có thể giúp được anh bằng đức tin mình. Anh chỉ biết có một người với đức tin như vậy - Đau-vi. Vì thế nên anh gửi đi bức điện tín với nội dung sau:

"Chị tôi gần chết, nhưng linh hồn tôi không để cho chị ta đi. Tôi tin rằng nếu ông cầu nguyện, Đức Chúa Trời sẽ chữa lành chị tôi."

Đau-vi đáp lời: "Hãy bám vào Chúa. Tôi cầu nguyện. Chị ta sẽ sống."

Đọc được những lời đó, Leik dấy lên một cuộc tấn công thuộc linh quyết liệt chống lại quyền năng cái chết, mạnh mẽ ngăn cấm nó nhân danh Jê-sus. Chưa đến một tiếng sau chị anh tỉnh lại, năm ngày sau chị đã ngồi cùng bàn dự lễ Giáng sinh với gia đình.

Nhưng tất cả những chuyện đó là trước kia, còn bây giờ người vợ yêu quí của anh đang đau ốm, và tình trạng của cô ngày một xấu đi.

Ma quỉ bị phát hiện

28 tháng Tư năm 1898, cảm tưởng như đồng hồ đang điểm những giờ cuối cùng của Giên-ny, một người hầu việc Chúa quen biết đã khuyên Leik chịu thuận theo ý muốn của Đức Chúa Trời và tiếp nhận cái chết của Giên-ny. Những lời của ông ta nói nghe cũng có lý, nhưng Leik cương quyết chống cự lại. Dù vậy, hiện hữu của cái chết dường như không thể tránh khỏi.

Trong tâm trạng tuyệt vọng hoàn toàn Leik ném quyển Thánh Kinh của mình vào thành lò sưởi, và nó rơi xuống sàn, mở ra đúng chương 10 sách Công vụ các sứ đồ. Khi anh tiến đến gần để nhặt nó lên, cái nhìn của anh rơi vào câu 38: "Đức Chúa Trời đã xức cho Đức Chúa Jê-sus ở Na-xa-rét bằng Đức Thánh Linh và quyền phép, rồi Ngài đi từ nơi nọ qua chỗ kia làm phước và chữa lành hết thảy những người bị MA QUỉ ức hiếp, vì Đức Chúa Trời ở cùng Ngài."

Những lời đầy năng lực này đã xuyên thấu trí óc anh: "bị MA QUỉ ức hiếp!" Có nghĩa là căn bệnh của Giên-ny và bất cứ một căn bệnh nào khác không phải đến từ Đức Chúa Trời! Và nếu bây giờ Leik - con cái Đức Chúa Trời trong Jê-sus Christ, thì khi đó Đức Chúa Trời cũng ở cùng anh, như Ngài đã ở cùng Chúa Jê-sus. Bây giờ anh thật sự tin chắc rằng đó chính là ma quỉ tìm cách cướp đi người mẹ của những đứa con anh. Chính ma quỉ đang huỷ hoại đời sống anh.

9:30 sáng

Lúc đó Leik mở sách Tin lành theo Lu-ca 13:16 và đọc: "Con gái của áp-ra-ham này, quỉ Sa-tan đã cầm buộc mười tám năm, há chẳng nên mở trói cho nó sao...?" Bây giờ anh lại được hiểu sáng tỏ thêm một điều, ngoài việc sa-tăng - nguyên cớ của bệnh tật và cái chết, hơn nữa là Jê-sus - qua Leik - có thể đem sự chữa lành và giải cứu cho những người bị đau khổ. Dùng anh, Chúa Jê-sus có thể chiến thắng những đau đớn của cái chết. anh hoàn toàn không nghi ngờ việc Chúa Jê-sus đã chết để cho vợ anh được lành bệnh, cũng hệt như Ngài đã chết cho tội lỗi của cô. Và anh quyết định rằng tuyệt đối không ai có thể cướp đi của Giên-ny món quà đó.

Hoàn toàn tin chắc rằng chỉ có Đức Thánh Linh mới có thể đem lại kết quả, Leik quyết định để Đức Chúa Trời được nói lời nói cuối cùng, chứ không để cho ma quỉ. Anh đi vào phòng ngủ và tuyên bố trước tất cả thế giới thấy được và không thấy được, rằng vợ anh sẽ được lành bệnh chính xác lúc 9:30 sáng.

Sau đó anh liên lạc với Đau-vi để thông báo cho ông về việc Đức Chúa Trời sẽ làm vào đúng thời điểm đó. Khi đồng hồ điểm 9:30, Leik quì gối nơi giường bệnh người vợ yêu quí của mình và kêu gào lên Đức Chúa Trời Hằng sống. Khi anh làm điều đó, quyền năng Chúa giáng xuống Giên-ny và chạy suốt thân thể chị từ đầu xuống chân. Bại liệt biến mất, nhịp tim trở lại bình thường, bệnh ho kết thúc, hơi thở phục hồi và nhiệt độ trở lại bình thường - ngay lập tức!

Đầu tiên Leik nghe thấy một tiếng kêu khẽ từ miệng Giên-ny. Sau đó chị la lên: "Ngợi khen Chúa, tôi lành bệnh rồi!" Điều đó thậm chí còn làm anh phát hoảng, vì một sức mạnh như vậy trong giọng nói của chị anh đã không được nghe từ vài năm nay. Sau đó Giên-ny hất tung đống chăn và đứng dậy - hoàn toàn lành bệnh! Sự ngợi khen mà họ với Giôn dâng lên Chúa thật không thể nào tả nổi.

Rất nhanh sau đó sự kiện Giên-ny lành bệnh được cả đất nước biết đến và khiến cho nhiều người trải quãng đường xa xôi để đến thăm ngôi nhà của Leik. Báo chí thì lại hâm nóng thêm sự tò mò, và vợ chồng Leik được nổi tiếng. Người ta đến nhà họ mỗi ngày để nhìn xem phép lạ của Đức Chúa Trời và để được cầu nguyện cho mình. Nhiều người khác gửi những nhu cầu cầu nguyện đến...

Sử dụng quyền năng thuộc linh

Vào năm 1901 Leik chuyển đến Si-ôn, bang Il-li-nois để học về sự chữa lành thiên thượng ở chỗ A-lech-xan-đrơ Đau-vi. Anh truyền giảng vào các buổi tối, học tập khi nào có thể, và làm việc quản lý điều hành trên công trường xây dựng của Đau-vi suốt cả thời gian ban ngày.

Đến năm 1904, Leik chuyển đến Chi-ca-go. Anh mua một chỗ thành viên của hiệp hội thương gia Chi-ca-go. Một năm sau trong tài khoản ngân hàng của anh đã có hơn 130.000 đô-la, và anh trở thành chủ nhân của bất động sản trị giá 90.000 đô-la. Nhìn thấy tài năng của anh, các nhà kinh doanh đề nghị Leik thành lập một liên hiệp (trest) của ba công ty bảo hiểm lớn nhất đất nước với thu nhập đảm bảo là 50.000 đô-la hàng năm. Bây giờ anh trở thành cố vấn của một nhà kinh doanh cao cấp, và cũng kiếm hàng trăm đô-la tiền dịch vụ.

Theo thước đo thời đó Giôn Leik đã làm được cả một sản nghiệp lớn (đô-la thời đó có giá trị ít nhất gấp 10 lần đô-la bây giờ - BBT). Nhưng sự kêu gọi của Đức Chúa Trời trong lòng anh vẫn tiếp tục lớn lên. Đến một lúc nào đó anh đã điều hoà được giữa thành công vĩ đại của mình trong thế gian và sự tăng trưởng trong Đức Chúa Trời. Anh đã học được cách bước đi theo Đức Thánh Linh, và anh mô tả như sau:

"Đối với tôi việc tách ra khỏi nhịp độ cuộc sống đã trở nên dễ dàng hơn, trong khi đôi tay và tâm trí phải bận công việc hàng ngày, tâm linh tôi vẫn giữ mối thông công với Đức Chúa Trời."

Có một số người nghĩ rằng nếu bạn được kêu gọi để hầu việc Chúa, thì bạn cần phải ngay lập tức bỏ công việc mình trong thế gian. Nhưng theo như tấm gương của Leik, thì điều đó không phải bao giờ cũng vậy. Học cách giữ mối thông công với Đức Chúa Trời qua tâm linh mình, Leik dần dần tiến tới thời điểm lý tưởng bắt đầu công vụ. Anh không chạy trước Đức Chúa Trời, và không để cho gia đình mình phải đau khổ. Sau này, khi thời điểm đã đến, anh có thể bán đi mọi thứ, vì đã học được đức tin lớn trong những năm bước đi với Đức Chúa Trời trong lĩnh vực kinh doanh.

Leik hiểu ra rất sớm trong công vụ của mình, rằng hiện trạng đi trước việc làm. Anh học được cách đi theo thời gian thiên thượng.

Tiếng lạ và thời điểm thiên thượng

Khi Leik còn sống ở Si-ôn, anh đến dự nhóm tại nhà của người bạn mình Fred F. Bos-vort. Tom Hez-mal-halch giảng lúc đó, và cuối buổi nhóm anh ta nói với Leik: "Khi tôi giảng, Chúa Jê-sus nói với tôi rằng chúng ta và anh sẽ cùng truyền giảng với nhau." Leik cười câu nói đó của anh ta, nhưng không lâu sau đó anh đã dâng mình cho ý muốn trọn vẹn của Đức Chúa Trời.

Không lâu sau đó, năm 1906, Leik bắt đầu cầu nguyện để được báp-tem Đức Thánh Linh. Anh tìm kiếm Đức Chúa Trời chín tháng, nhưng sau đó thôi, cho rằng "nó không phải là dành cho mình". Sau đó có một lần anh đi với Tom, bây giờ đã là người bạn thân nhất, để cầu nguyện cho một phụ nữ bị bệnh. Ngồi cạnh giường bà, Leik bắt đầu run bần bật vì cớ sự cảm động Đức Chúa Trời khác thường.

Nhưng Hez-mal-halch không nhận thấy điều đó, và đề nghị Leik đặt tay lên nữ bệnh nhân. Khi anh làm điều này, một tia chớp của Đức Chúa Trời đánh quị Tom xuống đất. "Ngợi khen Chúa, Giôn! - anh ta đứng dậy và nói - Jê-sus đã làm báp-tem Đức Thánh Linh cho anh!"

Sau này Leik mô tả:

"Khi hiện tượng đó qua đi, thì vinh hiển của nó vẫn còn lại trong linh hồn tôi. Tôi phát hiện ra rằng trong cuộc sống mình bắt đầu xuất hiện các ân tứ Đức Thánh Linh khác nhau. Tôi nói tiếng lạ với sức mạnh của Đức Chúa Trời, và Đức Chúa Trời bắt đầu tuôn chảy qua tôi với một quyền năng mới. Những sự chữa lành bắt đầu xảy ra mạnh mẽ hơn."

Leik thường nói tiếng lạ và tin rằng mức độ ít đầy dẫy hơn thế thì không thể gọi là báp-tem Đức Thánh Linh được. Anh nói:

"Nói tiếng lạ đối với tôi là phần việc của công vụ của tôi, là mối liên lạc đặc thù với Đức Chúa Trời đã mở ra cho lòng tôi những chân lý mà tôi mang đến cho các bạn ngày này qua ngày khác."

Châu Phi kêu gọi

Sau khi báp-tem Đức Thánh Linh lòng mong muốn phục vụ trọn thời gian của Leik càng lớn thêm. "Sếp" của anh đồng ý cho anh nghỉ phép ba tháng để đi truyền giảng Tin lành. Nhưng ông ta cũng báo trước cho anh rằng "sau ba tháng số tiền 50000 đô-la có thể sẽ trở thành quá lớn đối với anh, và chưa chắc gì anh sẽ chịu hy sinh chúng vì những mơ mộng tôn giáo." Leik cảm ơn người sếp mình về những gì ông ta làm cho mình, và thôi việc. Sau đó, khi ba tháng đã qua, anh mạnh dạn tuyên bố: "Tôi đã vĩnh viễn kết thúc với mọi việc trong đời ngoài việc công bố và truyền bá Tin lành Chúa Jê-sus Christ." Anh không quay trở lại nơi làm việc cũ nữa.

Năm 1907, Đức Thánh Linh nói với Leik: "Hãy đến In-đia-na-po-lis. Hãy chuẩn bị cho đợt truyền giảng mùa đông và thuê một gian phòng lớn, Mùa xuân con sẽ đến Châu Phi." Khi anh quay về nhà để kể cho Giên-ny, thì chị đã biết về kế hoạch này, vì Chúa cũng đã nói với chị.

Leik có mối quan tâm lớn đến Châu Phi từ khi còn bé được đọc về những chuyến đi của Sten-li và Li-ving-ston. Thời niên thiếu anh có những giấc mơ về Châu Phi nhiều hơn là Châu Mỹ.

Leik chuyển cả gia đình mình đến In-đia-na-po-lis, và liên kết với người bạn cũ Tom Hez-mal-halch. Họ ở lại đó sáu tháng và hai người thành một đội truyền giảng hùng mạnh, đưa hàng trăm người đến với báp-tem Đức Thánh Linh.

Sau đó vào một sáng Leik cảm thấy mình phải kiêng ăn cầu nguyện. Anh tìm kiếm Đức Chúa Trời trong sáu ngày, và khi đó anh được Chúa nói rằng từ nay anh sẽ đuổi quỉ. Sau đó là ân tứ phân biệt và xua đuổi các tà linh, và rất nhanh Leik đã học được cách hành động trong lĩnh vực này với độ chính xác cao.

Bước đi trên mặt nước

Vào tháng Giêng 1908 Leik bắt đầu cầu nguyện về những tài chính cần thiết cho chuyến đi. Tom cũng hiệp với anh, và họ dự định là chuyến đi sẽ tốn hai nghìn đô-la. Trong khi cầu nguyện Tom nhận được Lời Chúa sau bốn ngày sẽ có đủ tiền, và bốn ngày sau anh ta quay trở về từ bưu điện với bốn tấm séc 500 đô-la được người khác gửi đến.

Đúng như lời Chúa nói, tháng Tư năm 1908 nhóm các anh xuất phát đi Châu Phi. Đoàn gồm Leik, Giên-ny, bẩy đứa con của họ, Tom và ba người đồng sự nữa. Một trong số họ đã sống ở Châu Phi 3 năm, biết nói tiếng zu-lu và có thể làm người phiên dịch được. Họ dã mua vé, nhưng họ không có tiền để chi phí cho chuyến đi. Bây giờ nhà triệu phú trước kia của Đức Chúa Trời phải học cách hoàn toàn trông cậyvào Ngài. Trong túi anh chỉ còn có một đô-la rưỡi.

Leik đã tỏ thái độ vâng phục, và Đức Chúa Trời đã dùng phép lạ để chu cấp cho cả đoàn. Luật nhà nước Nam Phi đòi hỏi mỗi gia đình người nước ngoài muốn nhập cảnh phải có mang theo người ít nhất 125 đô-la, nếu không thì họ không được phép xuống khỏi tàu. Khi họ đến cảng, Leik không có số tiền đó. Giên-ny nhìn chồng và hỏi: "Anh định làm gì bây giờ?"

Leik đáp: "Anh sẽ đứng vào hàng cùng với những người khách khác. Từ trước đến giờ chúng ta đã vâng phục Đức Chúa Trời, và bây giờ mọi sự phụ thuộc vào Ngài."

Khi anh đứng trong hàng, chuẩn bị giải thích vấn đề của mình, thì một hành khác tiến đến gần, vỗ vai anh và gọi sang một bên. Ông ta hỏi Leik mấy câu và sau đó chìa ra cho anh hai tờ giấy bạc tổng trị giá 200 đô-la. "Tôi cảm thấy được thúc giục đưa cho anh cái này để giúp cho công việc của anh," - người lạ mặt nói - "Nếu anh đã nghe thấy Đức Chúa Trời nói, hãy mạnh dạn và năng động mà thực hiện bước đi của đức tin. Ngài sẽ có ở đó, để đón gặp anh mọi lần.

Ngôi nhà ở xa nhà

Khi gần đến Io-gan-nes-burg-gan-nes-burg, gia đình Leik bắt đầu cầu nguyện khẩn khoản về nhà ở. Là những giáo sĩ đức tin, họ không hề có sự trợ giúp nào của các ban điều hành Hội Thánh, không có hội chúng nào chờ đợi họ đến. Họ chỉ có đức tin vào Đức Chúa Trời.

Khi xuống khỏi tàu thuỷ tại Io-gan-nes-burg-gan-nes-burg vào tháng Năm 1908, họ nhìn thấy một người phụ nữ bé nhỏ người Mỹ chạy dọc cầu tầu và nhìn ngó vào mặt mỗi người. Bà ta chạy đến gần Tom và hỏi: "các anh là đoàn giáo sĩ?" - "Vâng!" - Tom đáp. "Các anh có mấy người?" - "Bốn". Bà ta lắc đầu và nói: "Các anh không phải là gia đình, còn có ai nữa không?"

Tom bèn chỉ bà đến với Leik. Bà ta rất sung sướng nhận ra đây đúng là gia đình với bẩy đứa con mà Đức Chúa Trời đã hướng dẫn bà đón gặp để bà sắp xếp chỗ ở cho họ. Ngay trong ngày đó gia đình Leik được vào ở trong ngôi nhà đầy đủ đồ đạc tại Io-gan-nes-burg-gan-nes-burg. Đức Chúa Trời đã ban cho họ như họ cầu xin. Người phụ nữ kia - bà Gu-đi-naf trở thành người bạn trung thành của họ trong suốt thời gian hầu việc Chúa.

Xoáy lốc thuộc linh

Vài ngày sau khi đến một cơ hội phục vụ đầu tiên được mở ra cho Leik. Một mục sư Nam Phi phải đi xa vài tuần và đề nghị Leik thay chỗ ông trên bục giảng. Leik ngay lập tức nhận lời.

Trong bài giảng chủ nhật đầu tiên của anh có hơn 500 người dân zu-lu (dân bản xứ - một bộ lạc lớn - ND) tham dự. Kết quả là một sự phấn hững mạnh mẽ, và sau vài tuần rất nhiều người tại Io-gan-nes-burg-gan-nes-burg và những vùng ngoại thành đã được cứu, được lành bệnh và được báp-tem Đức Thánh Linh.

Thành công đã khiến Leik phải sửng sốt. Sau này ông viết: "Ngay từ đầu đã có cảm tưởng như đó là một xoáy lốc thuộc linh."

Các buổi thời phượng kéo dài đến 4 giờ sáng.

Một trong những phần của những buổi thờ phượng đầy phép lạ này là sự thể hiện đáp lời cầu nguyện một cách đầy quyền năng. Lời cầu nguyện đức tin có thể được dâng lên cho một người sống tại vùng khác trong Châu Phi, với hiệu quả ngay lập tức. Lời đồn về những việc đó càng được phổ biến, và hàng trăm người đổ xô đến Io-gan-nes-burg để nhận được trả lời cho lời cầu nguyện mình. Sau các buổi nhóm người địa phương di theo sau các nhà truyền giảng đến tận nhà họ, và tiếp tục hỏi họ để hiểu biết hơn về Đức Chúa Trời. Rất nhiều lần, khi hừng đông đã ló dạng nơi chân trời Phi Châu, nhóm người đó vẫn còn tiếp tục bàn luận về quyền năng Đức Chúa Trời. Sau đó suốt cả ngày người ta có thể gặp những con người đó với Kinh Thánh trong tay đang làm chứng về quyền năng Đức Chúa Trời đã thể hiện ra chiều hôm trước.

Tại đó cũng có nhiều sự chữa lành kỳ diệu. Những người bị thương, bị bệnh và ốm đau đứng xếp hàng dọc tường, và sau khi được cầu nguyện đi ra khỏi toà nhà với những tiếng la lớn: "Đức Chúa Trời đã chữa lành tôi!" Đám đông trong toàn nhà, được chứng kiến những phép lạ của Đức Chúa Trời, nồng nhiệt đáp ứng bằng những tiếng hò la.

Phân đội Giôn và Giên-ny

Khi những người dân phi châu không vào được buổi nhóm của Leik, họ đi đến nhà những giáo sĩ. Có lúc đám đông lớn đến nỗi Giên-ny không kịp nấu ăn cho gia đình nữa. Chị đón gặp họ trước cửa, để họ được người khác cầu nguyện cho, sau đó dẫn họ ra qua cửa sau, để dọn chỗ cho những người mới đến.

Giên-ny cũng là người cộng sự với Giôn trong sự hầu việc (phục vụ). Giôn tin rằng người vợ mình có ơn "phân biệt các thần linh với mức độ lớn hơn" cả anh. Chị thường xuyên nhận được lời tri thức (một ân tứ Đức Thánh Linh, một cách siêu nhiên tỏ cho con người biết những điều cần biết về người mình đang phục vụ - ND) về những người không có khả năng nhận được sự chữa lành vì cớ những mắc mớ cá nhân với tội lỗi trong đời sống họ.

Gia đình Leik tổ chức các buổi cầu nguyện chữa bệnh rất đơn giản. Khi người ta đến với Leik, anh đặt tay lên họ. Những người được lành về nàh mình ngay. Nhưng ai chưa được lành hoặc mới chỉ lành một phần đi vào phòng khác. Sau khi Leik đã cầu nguyện xong cho những người khác, anh đưa Giên-ny vào phòng, và chị nhờ Đức Thánh Linh tỏ ra cho những người đó về những trở ngại cản trở họ nhận sự lành bệnh. Lắng nghe những lời về bí mật của lòng mình, nhiều người đã xưng tội và xin Chúa tha thứ. Sau đó Giôn và Giên-ny cầu nguyện lại, và Đức Chúa Trời chữa lành cho những kẻ đã ăn năn. Còn những kẻ không chịu ăn năn, mặc dù đã tiếp nhận những chân lý được Giên-ny giảng cho mình, thì quay về nhà trong căn bệnh cũ.

Ông ta là ai?

Leik là một con người của hành động. Một lần, sau lời kêu gọi đầy nhiệt huyết từ bục giảng, cả hội chúng chạy lên. Nhưng trong nhóm đó có một người ngã lăn xuống trước bục quằn quại lên cơn. Ngay lúc đó Leik nhẩy xuống khỏi bục giảng, tiến đến và ra lệnh đuổi quỉ nhân danh Jê-sus. Khi con người đó đã nhận được sự giải cứu, Leik bình thản quay trở lại bục giảng.

Thần của Chúa vận hành trên Leik một cách mạnh mẽ trong suốt những năm đó. Khi ông bắt tay những người đến dự buổi thờ phượng, nhiều khi họ ngã xuống sàn bởi quyền năng Đức Chúa Trời. Đôi khi người ta ngã nàm sải dài trên sàn khi họ đến gần ông quá sáu bước chân.

Leik luôn bày tỏ sự cảm thông sâu sắc với mọi người, và ông không bao giờ quay lưng lại với những lời kêu gọi cứu giúp. Không bao giờ ông từ chối lời gọi của người bệnh, và thậm chí còn được biết là ông cầu nguyện cho cả những thú vật bệnh sắp chết khi người ta nài nỉ ông. Có những lúc khi ông cần được nghỉ ngơi, nhưng người ta vẫn tìm ra ông và đưa người bệnh tới. Leik cầu nguyện cho họ cả ngày lẫn đêm, không từ chối ai.

Đội những người hầu việc luôn luôn có nhu cầu to lớn về đồ ăn và tài chính. Theo quan niệm thời đó Leik không bao giờ kêu gọi tiền dâng hiến. Nhưng ông thường xuyên bắt gặp những giỏ đựng đồ ăn hay là một khoản tiền nhỏ trên bậc cửa nhà mình.

Có thể điều khó khăn nhất đối với Giên-ny tại Châu Phi, đó là thích ứng với những thói quen của chồng mình. Trách nhiệm của anh là phải mang về đồ ăn cần thiết cho cả đại gia đình. Nhưng nếu dọc đường ông gặp người đàn bà goá với những đứa con đói khát, thì ông lại đưa hết cho họ những gì mình có. Giên-ny cũng không bao giờ biết trước là Giôn có đưa ai về nhà cùng ăn trưa hay không, cho nên chị luôn luôn phải tiết kiệm thức ăn dành cho trường hợp khi chị phải nấu cho cả đám đông người. Cảm tưởng là đồ ăn không có lúc nào là đủ cả.

Đội phục vụ gắn bó

Sau những ngày đầu tiên trong Hội Thánh của mục sư nọ, Leik chuyển sang thuê các gian phòng lớn. Sau đó, khi chúng trở nên quá chật, những buổi thờ phượng diễn ra ngay ngoài trời. Bây giờ Leik và Hez-mal-halch đã trở thành một "Đội những nhà truyền giảng". Mỗi người trong số họ đứng lên nói năm hay sáu lần trong một buổi nhóm, và không ai có thể nói được bài giảng nào đang kết thúc và bài nào đang bắt đầu. Mọi sự đều ở trong sự hài hoà của Đức Thánh Linh.

Leik lập ra "Đền tạm Sứ đồ" tại Io-gan-nes-burg và không đầy một năm mở 100 Hội Thánh. Những Hội Thánh này nằm ở các vùng khác nhau của Châu Phi, và sự điều hành chúng đòi hỏi những chuyến đi xa nhà thường xuyên.

Tạm biệt Giên-ny

22 tháng 12 năm 1908 một tin tức khủng khiếp nhất, không thể tưởng tượng nổi, giáng xuống Leik. Người vợ yêu quí Giên-ny của ông đã chết khi ông đang phục vụ tại sa mạc Ca-la-ha-ri. Khi ông quay về đến nhà, chị đã lên trời được 12 tiếng rồi.

Đa số lời chứng về cái chết của Giên-ny đều qui cho việc thiếu ăn và kiệt sức của chị. Khi Giôn đang đi xa, những đám đông tụ tập lại chờ ông quay về, họ nằm trên bãi cỏ trước cửa nhà. Vì thế nên Giên-ny nấu ăn cho họ, dùng hết cả những dự trữ đồ ăn bé nhỏ còn lại của mình. Và chị cũng cố tạo đieuè kiện dễ chịu nhất cho họ cho đến khi Leik về. Và cũng vì thế chị đã bỏ qua sức khoẻ của mình.

Còn Leik thì quá bận việc phục vụ người khác đến nối không để ý thấy những gì xảy ra với vợ mình.

Trong sự hầu việc một chuyện thường xuyên bị bỏ qua không để ý đến, là bao giờ cũng sẽ còn những nhu cầu cần được đáp ứng. Một sự hầu việc không thể đáp ứng hết cho mọi nhu cầu bắt gặp, dù cho sự hầu việc đó được xức dầu và mạnh mẽ đến đâu đi nữa. Vì vậy trong sự hầu việc cơ-đốc còn cần cả suy nghĩ lành mạnh nữa. Thân thể tự nhiên và gia đình cần phải được quan tâm chăm sóc, và gia đình bản thân phải là hạt nhân của mỗi sự hầu việc Chúa.

Thật dễ hiểu là Leik bị chấn động như thế nào khi ông quay về bắt gặp vợ mình đã chết. Đây là một thời gian tăm tối đối với ông, và nỗi đau đớn dày vò còn lại suốt nhiều năm.

Một năm sau, 1909 Leik quay trở về Mỹ, để kêu gọi tiền dâng hiến cho sự phục vụ Phi châu của mình và để tìm thêm những người làm việc mới. Và Đức Chúa Trời lại chu cấp tài chính một cách siêu nhiên chỉ trong một buổi thu tiền dâng hiến. Ông thu được 3000 đô-la và có thể quay trở lại với những cộng sự mình.

Bệnh dịch hạch

Khi đoàn quay lại vào đất Phi Châu năm 1910, trên vùng đất này nạn dịch hạch đang hoành hành. Một phần tư dân chúng đã chết trong vòng dưới một tháng. Dịch lệ độc hại khủng khiếp đến nỗi chính phủ đề nghị trả lương 1000 đô-la cho mỗi một người tình nguyện đi làm việc với những người bệnh. Leik và những người cộng sự thì đi giúp không lấy tiền. Ông cùng với một cộng sự đi vào những ngôi nhà, đưa những người chết ra và chôn cất họ. Nhưng chẳng có dấu hiệu nào của dịch bệnh động chạm được đến họ.

Vào thời điểm khi dịch hạch này lên đến đỉnh điểm, một bác sĩ cho gọi Leik và hỏi ông: "Làm sao ông có thể giữ mình được? Chắc chắn là ông phải có một bí quyết nào đó!"

Và Leik đáp lại: "Anh ơi, đó là luật của Thánh Linh Sự Sống trong Đức Chúa Jê-sus Christ. Tôi tin rằng, khi mà hồn tôi vẫn còn ở trong liên lạc với Đức Chúa Trời hằng sống, để cho Thánh Linh Ngài tuôn chảy vào linh hồn và thân thể tôi, thì không có một vi khuẩn nào có thể bám nổi vào tôi, vì Thánh Linh Đức Chúa Trời sẽ giết chết nó."

Sau đó Leik đề nghị ông bác sĩ làm một thí nghiệm. Ông đề nghị bác sĩ lấy nước dịch trong phổi của những nạn nhân căn bệnh chết người này và đem đặt chúng soi dưới kính hiển vi. Bác sĩ làm theo và nhìn thấy một đống vi khuẩn đang sống. Sau đó Leik khiến những người nhóm tại đó phát khiếp, khi đề nghị bác sĩ bôi chất dịch mang cái chết trong mình đó lên bàn tay ông, và ông tuyên bố rằng chúng sẽ chết.

Bac sĩ làm theo và nhận thấy là mọi vi khuẩn đều đã chết hết trong lòng bàn tay Leik. Những nhân chứng của cuộc thí nghiệm này đứng đó trong sự bàng hoàng, còn Leik tiếp tục dâng lên Chúa lời ngợi khen và nói: "Các ông có thể bôi chúng đầy tay tôi, và tôi sẽ để tay trước kính hiển vi, các ông sẽ thấy vi khuẩn chết ngay lập tức."

Cũng chính quyền năng đó tuôn chảy qua đôi tay của Leik đến thân thể những người đau khổ vì bệnh tật để đem sự chữa lành cho những đám đông người. "Tia chớp" của Đức Chúa Trời huỷ diệt mọi bệnh tật và đau ốm

Khi nữ hoàng Hà-lan đề nghị Leik cầu nguyện cho bà ta, để bà có thể mang được đứa con cho đến đúng kỳ sinh, ông gửi cho nữ hoàng một bức thư, báo rằng lời cầu nguyện của bà đã nhận được sự trả lời. Chưa đầy một năm sau nữ hoàng Hà-lan Giu-lia-na, trước đó từng sảo thai 6 lần, đã sinh đứa con đầu tiên của mình.

Chức vụ Đức Thánh Linh

Tháng Mười hai 1910 Tom Hez-mal-halch rời khỏi Leik. Đối với Leik đó là một thời kỳ rất khó khăn. Cách đây không lâu ông vừa mất người vợ yêu quí, và bây giờ ông mất người bạn thân và người đồng sự tốt nhất. Nhưng ông được tiếp thêm sức lực bởi biết rằng mình đang thực hiện ý muốn của Đức Chúa Trời. Và ông cũng được sự yên ủi lớn lao từ phía những người Mỹ cùng chí hướng. Những lá thư động viên đến từ nhiều người, họ khẳng định với ông sẽ ủng hộ công vụ của ông.

1910-1912 Leik phục vụ trong sự chữa bệnh bằng cầu nguyện cho những người bệnh. Có những phép lạ vĩ đại đã xảy ra mà cho đến giờ ở Châu Phi người ta còn nhớ. Ông lập hai Hội Thánh lớn: Sứ mạng đức tin sứ đồ/Đền tạm Sứ đồ (không liên qua đến Hội Thánh đức tin sứ đồ) và Hội Thánh cơ-đốc Si-ôn.

Leik và hội chúng của ông phát hành một bản tin được gửi đến cho hàng ngàn người. Trước khi gửi đi những số báo các thành viên Hội Thánh đặt tay lên chúng và cầu nguyện, để những văn phẩm đó được xức dầu Đức Thánh Linh đầy dẫy. Họ tin rằng quyền năng Chúa sẽ xức dầu những tờ giấy đó giống như điều đã xẩy ra với những mảnh khăn của sứ đồ Phao-lô. Kết quả là từ khắp các nơi trên thế giới hàng nghìn bức thư được gửi đến, kể rằng Đức Thánh Linh giáng xuống những người nhận khi họ mở phong bì ra như thế nào. Một người phụ nữ viết rằng, khi cầm bản tin vào tay, chị ta "bắt đầu run lên" mạnh đến nỗi khó khăn lắm mới ngồi được xuống ghế. Sau đó chị nhận được báp-tem Đức Thánh Linh và bắt đầu nói tiếng lạ. Leik giải thích đơn giản hiện tượng này: "Sự phục vụ cơ-đốc là sự phục vụ Đức Thánh Linh."

Leik biết cách dẫn cả hội chúng đến sự hiện diện của Đức Chúa Trời. Ông dạy và nâng đỡ mọi người theo kinh nghiệm thuộc linh phong phú của mình, và kết quả là họ cũng lớn mạnh lên trong sự siêu nhiên. Vào năm 1912 hội chúng được đề nghị cầu nguyện cho chị họ một người đang nằm trong bệnh viện tâm thần tại xứ U-ên cách đó bẩy nghìn dặm. Khi linh của sự cầu nguyện bao trùm trên mọi người, bỗng nhiên một sự nhận biết Đức Chúa Trời lớn lao giáng trên Leik. Cảm giác là từ những người cầu thay phát ra những tia lửa. Sau đó, bỗng nhiên ông thấy mình được chuyển động trong Thánh Linh với tốc độ của ánh sáng. Ông đến một nơi mà trước kia chưa từng đến, và hiểu ra rằng mình đang ở tại U-ên. Sau đó ông vào phòng người chị họ của người kia, đang bị buộc vào giường và lắc lư đầu từ hướng này sang hướng khác. Ông đặt tay lên chị ta và đuổi con quỉ ra khỏi chị. Sau đó, đột nhiên ông lại tỉnh ra tại Io-gan-nes-burg thấy mình đang quì gối trên bục. Sau ba tuần tin về sự giải cứu hoàn toàn người phụ nữ kia. Các bác sĩ "bỗng nhiên" thấy chị ta hoàn toàn bình thường và cho ra khỏi viện.

Người khách lãng du đầy xức dầu

Đến khi Giôn Leik rời khỏi Châu Phi và quay lại Mỹ, nhờ những cố gắng của sự phục vụ của ông đã đào tạo được 1250 nhà truyền giảng, mở ra 625 Hội Thánh và được 100.000 người cải đạo. Số lượng chính xác các phép lạ xảy ra tại các buổi nhóm của ông không thể đếm được. Số liệu thống kê này chỉ là trong có 5 năm phục vụ!

Leik quay lại Mỹ vào năm 1912. Năm đầu tiên gia đình luôn di chuyển và bây giờ cần được nghỉ ngơi. Sau đó vào năm 1913 Giôn gặp gỡ với Flo-rens Svit-ser từ Mi-lu-ô-ki, bang Vis-con-sin, và cưới cô ta. Vào những năm sau họ có 5 đứa con. Flo-rens là một nữ đánh máy tốc ký tuyệt vời và chịu trách nhiệm ghi lại và gìn giữ nhiều bài giảng của Giôn Leik.

Mùa hè năm 1914 Leik gặp một nhà tài chính của công ty đường sắt và là một người bạn cũ của mình Gim Hill. Họ trở nên những người bạn thân khi Leik còn làm việc ở Chi-ca-go. Hill sướng quá khi gặp Leik, và đề nghị cho gia đình ông vé tầu không mất tiền trong các tuyến đường mà công ty xe lửa của họ chạy.

Phòng chữa lành tại Spok-kein

Leik dùng dịp tiện và đi lại khắp đất nước. Đầu tiên ông đến Spok-kein, bang Oa-sinh-ton, và ông dừng lại và tổ chức những căn phòng chữa lành trong một toà nhà công sở cũ. Người ta cho rằng trong những căn phòng đó đã xảy ra khoảng 100.000 sự chữa lành.

Những tờ báo của Spok-kein thường xuyên in những lời làm chứng của những người được lành bệnh. Thực tế là những kết quả đó quá khó tin đến nỗi một uỷ ban về những tổ chức đang hoạt động quyết định nghiên cứu tính xác thực của những sự lành bệnh. Các đại diện của họ liên lạc với những chủ nhân các phòng chữa lành để tổ chức kiểm tra.

Để đáp ứng đòi hỏi của uỷ ban, Leik gọi những người mà lời làm chứng của họ đã được lên báo. Tất cả mười tám người đến đều làm chứng về quyền năng Đức Chúa Trời trước uỷ ban. Sau đó Leik báo tên của những người đã được lành ở khắp thành phố, để uỷ ban cũng có thể hỏi họ. Và sau đó ông đề nghị tổ chức buổi nhóm vào chủ nhật sau, để 100 người sẽ lên làm chứng về sự họ được lành bệnh. Ông đề nghị uỷ ban lập ban thanh tra gồm các bác sĩ, luật sư, quan toà và thầy giáo, để họ cũng có thể nói lên quan điểm của mình.

Nhưng đến thứ sáu Leik nhận được từ uỷ ban bức thư báo rằng những kết quả nghiên cứu đã đủ đúng, và không cần đến buổi nhóm đặc biệt vào chủ nhật nữa. Người ta cũng khen ngợi ông về công việc ông đang làm trong thành phố. Hai thành viên trong uỷ ban còn đích thân đến nhà ông và nói với ông: "Ngài kể còn chưa đến một nửa tất cả những gì đã xảy ra."

Trong số những người đã được hỏi có một phụ nữ trước kia không có những cơ quan phụ nữ, nhưng bây giờ do được chữa lành đã có thể sanh đẻ được. Bà ta khoe với những người điều tra đứa nhỏ tuyệt vời của mình.

Người phụ nữ khác kể về xương bánh chè bị vỡ được lành một cách kỳ diệu. Sau lời cầu nguyện chỗ xương chuyển liền lại vị trí của nó trong vòng dưới 1 giờ mà không hề thấy đau đớn gì. Một phụ nữ khác bị ung thư không thể chữa nổi đã hoàn toàn lành bệnh sau khi cầu nguyện. Người khác trong nháy mắt được khỏi bệnh viêm khớp, và xương cốt lấy lại hình dạng bình thường. Người này còn được lành khỏi sa dạ dầy, và màng nhĩ mà từ khi bà ta sinh ra đã không có lại mọc ra một cách kỳ diệu đúng chỗ nó.

Nhưng trường hợp kỳ diệu nhất xảy ra tại Nhà chữa lành Spok-kein có lẽ là việc cậu bé, sinh ra với cái đầu ngoẹo như chiếc thuyền lật ngược. Các bác sĩ tuyên bố là chưa thể làm gì được cho đến mười hai tuổi, và dù thế nào đi nữa thì phẫu thuật cũng sẽ rất nguy hiểm. Nhưng sau khi cầu nguyện những xương của cậu bé mềm ra, khung xương đầu to ra và những cơ bắp được phục hồi lại hình dạng bình thường. Bệnh bại liệt của cậu ta cũng biến mất, và cậu bắt đầu nói được như những đứa trẻ bình thường.

Leik giải thích như thế nào về những điều kỳ điệu này? Ông thường đem chuyện bà Et-ter là người có ảnh hưởng thuộc linh rất lớn đến ông ra làm ví dụ: "Khi chúng ta nhìn thấy những chớp sáng loè lửa thiên thượng trong đời con người, như thấy trong người chị em Et-ter vào lúc ai đó được chữa lành, thì đó là vì tri giác của bà và Đấng Christ lúc đó là một. Bà hoà tan trong Đức Chúa Trời. Tôi đã thấy một người phụ nữ đang chết được chữa lành trong vòng 30 giây khi người chị em Et-ter đuổi quỉ khỏi người cô ta. Ngọn lửa của Đức Chúa Trời, lửa Thánh Linh của Ngài, mười giây nối liền với Đấng Christ Toàn Năng ở nơi ngai Đức Chúa Trời - đó là bí quyết của mọi sự."

"Đấu tranh cho Ngũ tuần"

Theo thống kê của chính phủ từ về giai đoạn 1915 đến 1920, thành phố Spok-kein bang Oa-sinh-ton là "thành phố khoe mạnh nhất trên toàn thế giới" nhờ sự phục vụ của Giôn Leik. Thị trương Spok-kein đã tổ chức những buổi lễ hội công khai để cảm ơn những đóng góp của ông.

Vốn là một nhà kinh doanh tuyệt vời, Leik theo dõi chính xác việc ghi chép các tài liệu. Chúng cho biết rằng trong những căn phòng chữa bệnh tại Spok-kein có đến hai trăm người được lành bệnh hàng ngày, và đa số trong số họ không phải là thành viên các Hội Thánh.

Leik cũng lập tại Spok-kein Hội Thánh Sứ đồ, mà nhờ sự phục vụ và chữa lành của mình đã lôi cuốn được hàng nghìn người từ khắp thế giới đến. Ông tổ chức sáu buổi nhóm phục vụ trong một tuần, hai lần vào ngày chủ nhật, và đi thăm các nhà vào thời gian trong tuần.

Tháng năm 1920 Leik rời khỏi Spok-kein và đến Port-lend, bang O-re-gon, tại đó ông đi các nơi như một sứ đồ và có thời gian làm mục sư. Ông lập một Hội Thánh Sứ đồ nữa và cũng bắt đầu phục vụ chữa lành như tại Spok-kein.

Tại Port-lend Leik nhận được khải thị, có thiên sứ hiện ra với ông. Thiên sứ mở Kinh Thánh ra sách Công vụ các sứ đồ, chỉ vào sự đổ Thánh Linh ra vào ngày lễ Ngũ tuần. Thiên sứ cũng chỉ cho Leik chú ý đến những hiện tượng và sự tỏ ra thuộc linh khác trong sách đó và nói: "Này là Ngũ tuần mà Đức Chúa Trời ban qua trái tim Jê-sus. Hãy đấu tranh vì nó. Chiến đấu vì nó. Hãy dậy người ta cầu nguyện về điều đó. Bởi vì điều này và chỉ có điều này đem giải đáp đến cho những đòi hỏi của trái tim con người và quyền năng để chiến thắng những thế lực của bóng tối."

Từ đó trở đi Leik đấu trang cho Lời Chúa được ứng nghiệm với một sức mạnh gấp bội. Trong 11 năm tiếp theo ông đi khắp nước Mỹ, dâng mình trọn vẹn cho công việc.

Nam châm của Đức Chúa Trời

Trong thời kỳ cao nhất của sự phục vụ của Leik thế gian quanh ông được lôi cuốn bởi sự hiểu biết Đức Chúa Trời của ông, và người ta thường xuyên đổ đến chỗ ông. Cách hiểu của ông về sự công bình cho ông điều khiển được mọi hoàn cảnh. Ông không thể nào chịu được những bài hát cơ-đốc mà trong đó người ta được gọi là "những con sâu". Khi ông nghe thấy chúng, ông cau mặt và mím môi, gọi chúng là những tác phẩm "tồi tệ". Ông cho đó là sự hạ nhục đối với huyết Jê-sus. Con gái của Leik viết rằng, bố có nhận thức rất mạnh mẽ về việc thế nào là được làm vua và thầy tế lễ trước mặt Đức Chúa Trời và cần phải tỏ ra phẩm giá và vinh dự của danh hiệu đó."

Leik là người bảo vệ nhiệt tình những sự siêu nhiên. Ông từng giảng rằng sẽ có một ngày người ta sẽ chạy từ khắp nơi đến "Trường học Đức Thánh Linh", là nơi họ sẽ học được cách cộng tác và hiệp với quyền năng Đức Chúa Trời.

Ông có một khả năng tuyệt diệu động viên đức tin và sự tỏ ra trong lòng những người nghe. Những người hầu việc Chúa đã được học ở ông rất nhanh chóng tìm được cho mình những sự phục vụ đức tin mà cũng kết quả bởi những sự chữa lành kỳ diệu.

Leik khẳng định: "Nếu như cơ-đốc nhân không có Đức Thánh Linh để mà sống với đúng ý nghĩa cao đẹp chân chính, thì anh ta chẳng có gì để mà phục vụ. Những người khác có thể có trí tuệ, nhưng cơ-đốc nhân phải có Đức Thánh Linh. Trong vấn đề này không thể có sự không hiểu."

Để đạt được những mục đích siêu nhiên Leik kêu gọi mỗi một tín đồ đến với quyền năng Ngũ tuần. Liên hệ về vấn đề này có lần ông đã có lời tiên tri như sau: "Khi tâm linh tôi nhìn vào tương lai và đến với trái tim con người và ý muốn của Đức Chúa Trời, tôi thấy từ trời xuất phát ra một sự bày tỏ Thánh Linh mới trong quyền năng và sự bày tỏ mới này sẽ trong tình yêu, dịu dàng, mềm mại và năng lực Thánh Linh vượt quá mọi điều trái tim các bạn và tôi đã từng nhìn thấy. Chính những tia chớp của Đức Chúa Trời sẽ chớp sáng qua những linh hồn con người. Con cái Đức Chúa Trời sẽ gặp con cái của bóng tối và sẽ chiến thắng."

Gia sản kỳ diệu

Vào năm 1924 Leik được cả nước Mỹ biết đến như một nhà truyền giảng Tin lành chữa lành. Ông đã lập 40 Hội Thánh tại Hiệp chủng quốc Hoa kỳ và Ca-na-da, tại những nơi đó xảy ra nhiều sự chữa lành đến nỗi trong các hội chúng người ta bắt đầu gọi ông là "Doctor (bác sĩ) Leik".

Vào tháng 12 trong chức vụ của ông còn xảy ra một điều kỳ diệu nữa. Gor-don Lind-say, người sau này sáng lập trung tâm Đấng Christ cho các dân tộc tại Dal-las, Texas, đã ăn năn tin nhận Chúa khi nghe Leik giảng tại Port-lend. Lind-say sau đó đến dự buổi giảng gần như hàng ngày tuần sau, và coi Leik như người thầy mình. Khi sau này Lind-say bị trúng chất độc từ xác chết, ông đã được hoàn toàn chữa lành khi đến được nhà của Leik.

Vào năm 1931, trong tuổi 61, Leik quay về Spok-kein. Ông đã yếu, mệt mỏi và gần như loà mắt. Vì vạy nên ông quyết định "nói chuyện" với Chúa. Ông nhắc lại với Ngài rằng thật xấu hổ như thế nào nếu như ông sẽ bị mù hẳn sau khi hơn 100.000 người đã nhận được sự chữa lành nhờ sự phục vụ của ông tính chỉ trên đất Mỹ. Đến cuối buổi nói chuyện thị lực của ông hoàn toàn phục hồi lại và vẫn giữ như thế đến cuối những ngày của ông.

Đồng cai trị trên thiên đàng

Ngày lễ Lao động vào năm 1935 là một chủ nhật nóng bức. Gia đình Leik đến dự pic-nic với một trường học chủ nhật, và Giôn trở về nhà rất mệt mỏi. Ông đi nghỉ. Flo-rens đề nghị ông ở nhà, khi bà đi dự buổi nhóm Hội Thánh vào buổi chiều, và khi bà quay trở về, thì thấy Giôn bị một cú đau tim. Ông rất yếu, hai tuần gần như bất tỉnh. Sau đó đến 16 tháng 9 năm 1935 Giôn G. Leik đã quay về với Chúa. Ông được 65 tuổi.

Trong buổi thờ phượng tưởng nhớ Leik có rất nhiều lời nói tốt đẹp ngợi khen, nhưng có lẽ chúng được diễn đạt hay hơn cả trong trích đoạn sau từ một lời phát biểu của một người tin nhận Chúa qua Leik ở Spok-kein:

"Doctor Leik đến Spok-kein. Ông tìm ra chúng tôi trong tội lỗi. Ông tìm ra chúng tôi trong bệnh tật. Ông tìm ra chúng tôi tâm linh khốn cùng. Ông tìm ra chúng tôi trong tuyệt vọng, nhưng ông mở ra cho chúng tôi một Đấng Christ như thế này, mà thậm chí chúng tôi cũng chưa hề mơ được gặp phía trên trời kia. Chúng tôi nghĩ rằng chỉ có trên đó mới có chiến thắng, nhưng Doctor Leik đã chỉ cho chúng tôi là chiến thắng đã có ở đây rồi."

Để kết thúc chương này, tôi muốn kêu gọi các bạn bước đi trong sự tỏ ra về sự công bình trong Đấng Christ. Sự công bình - đó là phong cách sống, mà đem lại chiến thắng trong mỗi hoàn cảnh. Nếu chúng ta nhận thức được ý nghĩa địa vị của chúng ta trong Chúa Jê-sus Christ, như Leik đã có, thì mọi dân tộc chắc đều đã ngợi khen Đức Chúa Trời. Và mọi thế lực tà linh chắc đã đổ sụp dưới uy tín đó.

Giôn G. Leik chỉ cho chúng ta là phong cách sống như vậy là có thể, và nó mang lại sự vui thỏa cho những ai noi theo. Vì vậy, đừng ngừng sống trong những gì Đức Chúa Trời đã ban cho chúng ta trong Chúa Jê-sus Christ. Hãy để cho Đức Thánh Linh tỏ ra cho các bạn địa vị thiên thượng của mình, và sau đó hãy giữ địa vị đó và biến đổi các dân tộc cho Đức Chúa Trời.

(trích một chương từ sách "các tướng lĩnh của Đức Chúa Trời" của Ro-berts Liar-don)

Thế Gian Không Xứng Đáng Cho Họ

Tác giả: Danyun

1. Lời Giới Thiệu

Chín ngày liền, mỗi một giọt nước ở vùng đồng bằng Fanda, thuộc miền bắc Trung Quốc đều bị đông đá. Nhiệt độ đã hạ xuống mười chín độ dưới không. Có một ngọn gió tây bắc thổi, quét những đợt tuyết quấn lại giống như những quả bóng bằng bông. Sau nhiều giờ đồng hồ, tuyết dày đến một mét đã bao phủ khu vực giống như một tấm chăn màu trắng. Có vẻ như nó che phủ mọi tội lỗi của loài người. Vào lúc hai giờ sáng, ở một huyện nọ tại làng 'Tình Yêu', có một người đàn ông trạc tuổi trung niên, ngoài bốn mươi, quì gối cầunguyện trong sân đằng sau nhà. Ông cầu nguyện hơn hai tiếng đồng hồ. Ông cầu nguyện dốc đổ lên cùng Chúa cho đất nước mình, cho đồng bào, và hàng nghìn linh hồn và vì công việc Hội thánh. Khi ông cầu nguyện, mắt cá chân ông càng lún sâu xuống tuyết sâuhơn và sâu hơn. Ông bắt đầu khóc và nước mắt ông đã rơi xuống tuyết. Ông tiếp tục cầu nguyện và thình lình ông nghe thấy trong lòng có tiếng êm dịu nhỏ nhẹ nói với ông: “Trong ba ngày nữa, ngươi sẽ bị bắt vì Chúa”. Từ tận đáy lòng, ông cảm tạ Chúa và đứnglên. Lúc đó chiếc quần của ông trở nên giống như đá. Ông là ai? Từ đâu đến? Tại sao ông lại đến cầu nguyện ở chỗ đó?

2. Ánh sáng đã mọc lên trên những kẻ ngồi dưới bóng sự chết (Ma-thi-ơ 4:16)

Mặt nước sông trong xanh chiếu lấp lánh, như những đốm lửa dưới ánh mặt trời buổi sáng sớm. Bạn dường như thấy ánh sáng cứ tiếp tục lan ra, khi dòng sông chảy từ hướng bắc đổ về phía nam. Những con cá nhỏ bơi lượn dưới ánh mặt trời ban mai, nếu mà có vài cậu chăn bầy đi qua, có lẽ chúng sẽ nhảy xuống sông để nô đùa. Phía đông của giòng sông là một ngọn núi nhỏ. Tuy nó không cao lắm, vốn là phần của một dải núi kéo dài một nghìn sáu trăm cây số. Dải núi trùng trùng điệp điệp có cây rậm bao trùm, làm cho nó có một dáng vẻ rất đặc biệt. Trong ngôi làng ở dưới chân núi, có bốn ngôi nhà tranh nằm ven sông. Ở đây có một đôi vợ chồng và năm đứa con sinh sống.

Đầu của gia đình là Cheng Jian. Anh có dáng người vừa vừa, nhưng rất chắc nịch, với đôi lông mày đậm, đôi mắt sáng, một gương mặt tròn, cái mũi to và một cái miệng rộng. Anh là người đầy tràn sức sống. Tuy đã ngoài ba mươi và có một cuộc sống khắc nghiệt, nhưng anh vẫn thường cởi mở, dí dỏm và lạc quan như những ngày còn trẻ tuổi. Anh là một người đầy dẫy sự vui mừng, dù cho trong hoàn cảnh khó khăn nhất, bạn vẫn có thể nghe thấy tiếng cười của anh.

Bởi vì tình trạng đất nước bi đát, nên đối với mỗi người, cuộc sống rất khó khăn. Vợ của Jian rất hay bị đau ốm. Họ nghèo đến nỗi nhiều khi nhà không có đồ ăn. Điều đó đã kéo dài sáu đến bảy năm. Đôi khi, Jian đi ngang qua nhà của người họ hàng mình chỉ để chào hỏi. Người họ hàng của anh thì lo sợ rằng anh sẽ mượn tiền của họ. Họ thấy không biết nói chuyện gì với Jian. Điều đó càng làm cho Jian lúng túng hơn và không biết làm thế nào.

Trong cuộc cách mạng văn hóa, đối với các Cơ-đốc nhân, xuống đường để bị 'bêu gương' là chuyện rất bình thường. Lúc đó là vào mùa xuân năm 1974. Vào một buổi trưa, Jian đi ngang qua một xóm kia. Anh trông thấy có một bà già bị bắt ra đường để bị 'bêu gương'. Bà khoảng chừng sáu mươi tuổi. Jian đã nghe thấy bà nói rằng “Gia đình chúng tôi rất nghèo, và chúng tôi thường bị đau ốm. Thậm chí, tôi bị nhiều chứng bịnh khác nhau. Tôi đã tốn hết bao nhiêu tiền cho thuốc men và thật là khổ sở. Nhưng kể từ khi tôi đến với Chúa Giê-xu, trong gia đình tôi có sự bình an.”

Sau khi Jian nghe thấy điều đó, anh tự nghĩ: “Hay đấy, tin Chúa Giê-xu có thể làm cho mình được khỏe mạnh.” Nên anh đã chạy về nhà và tìm những người của Hội thánh. Anh nói rằng anh muốn tin Chúa Giê-xu, và nhờ Hội thánh hãy cầu nguyện cho vợ của mình. Nhưng các anh em đã không tin lời anh. Nhưng anh đã kiên quyết. Anh đã ba bốn lần trong ngày đến nhà của các anh em, để xin họ cầu nguyện. Cuối cùng, các anh em đã được lay động. Họ đến nhà của anh để cầu nguyện cho vợ anh. Họ làm liên tiếp ba ngày liền. Ngợi khen Chúa! Vợ của Jian đã được lành hẳn. Cô không trông như đã từng bị bệnh một thời gian dài, nhưng cô đã ra đồng làm việc được ngay vào ngày thứ tư và những người trong tổ sản xuất đều rất ngạc nhiên. Cô thường hay kêu la và rất khó gần. Nhưng bây giờ cô đã hoàn toàn thay đổi. Mọi người hỏi cô “Có phải chị tin Chúa Giê-xu không?” Chị Jian chỉ cười; chị không nói một lời nào. Nhưng bản thân Jian, thì vẫn chưa đến với Chúa. Tấm lòng anh vẫn còn cứng cỏi. Anh nghĩ, bởi vì vợ tôi được chữa lành, nên cô sẽ là người tin Chúa Giê-xu, chứ không phải là tôi. Vào một buổi tối, vợ anh từ buổi nhóm trở về. Cô đã quì gối trong phòng riêng và cầu nguyện dốc đổ cho jian, trong khi Jian đang ngủ ở một phòng khác. Sau đó Jian cảm thấy người khó chịu quá. Anh đã quì gối xuống và bắt đầu kêu gào. Anh đã kêu la mấy tiếng đồng hồ như vậy, cho đến khi anh được sự bình an trở lại trong lòng, và tối hôm đó anh đã tiếp nhận Chúa. Jian vốn là người 'hồn nhiên, ngây thơ' và được mọi người yêu mến. Nhưng sau khi anh được cứu, mọi người bắt đầu ghét bỏ anh.

3. Khi ngươi đã quay trở lại, hãy làm vững chí anh em mình. (Lu-ca 22:32)

Vào một ngày kia, khi Jian và vợ đang làm việc ngoài đồng, có hai người bắt đầu châm chọc và nói những điều có ý khích bác. Họ rất có vẻ miệt thị và nhạo báng Đức Chúa Trời, đến lúc Jian không thể đứng yên được nữa, anh lên tiếng nói “Thôi đi! Nếu các ông muốn nói gì, thì hãy nói ra! Tôi có làm hại các ông điều gì chăng, mà các ông lại xúc phạm đến Đức Chúa Trời của tôi như vậy?” Hai người không dám nói điều gì thêm. Họ gục đầu xuống và bắt đầu làm việc.

Jian đi nhóm thường xuyên. Vào một ngày kia anh và vợ bị bắt trong một buổi nhóm và bị đưa đi 'học tập'. Năm đứa con nhỏ bị bỏ lại ở nhà, không ai chăm sóc. Mười ngày sau, tất cả những người trộm cắp, cờ bạc, và gây gổ đều được thả ra, ngoại trừ Jian và vợ anh. Cuối cùng không còn thức ăn ở nhà nữa. Các con cứ đến lớp 'học tập' và đứng ngoài kêu gào. Điều đó làm cho trái tim Cheng Jian tan nát. Càng tệ hơn, những người lãnh đạo đảng tiếp tục dọa nạt họ. Nên cuối cùng, Jian chối bỏ Chúa Giê-xu và ký tên vào.

Sau khi về nhà, họ vô cùng buồn bã. Họ không thể ăn ngủ được. Sau đó họ đã quì gối xuống và khóc lóc trước Chúa. “Chúa ơi, chúng con đã không thành tín, chúng con không biết là Ngài có còn yêu chúng con nữa hay không. Nếu Ngài còn yêu chúng con. Xin hãy để cho chúng con bị ốm trong mười ngày.” Sau khi họ đã cầu nguyện lời cầu nguyện đó, họ càng khóc thảm thiết hơn nữa. Ba ngày sau đó, cả gia đình đều lăn ra ốm. Người lãnh đạo đảng thấy gia đình Jian không ra đồng làm việc mấy ngày, thì ông cùng với mấy người nữa đã đến, để tìm ra nguyên nhân. Jian nói với ông ta, “Bởi vì các ông bắt ép tôi chối bỏ Chúa Giê-xu và ký tên, nên chúng tôi đã bị ốm, và Chúa cũng đã tha thứ cho chúng tôi. Hãy đưa lại cho tôi tờ 'tuyên bố ly khai', nếu không chúng tôi sẽ chết. Kể từ lúc này, không những cả gia đình tôi tin Chúa Giê-xu, chúng tôi còn hiến dâng cả nhà cửa chúng tôi cho Chúa nữa. Chúng tôi sẽ có những buổi nhóm ở nhà chúng tôi.

Sau khi Jian đã ăn năn như vậy, anh bắt đầu tháo mồ hôi và được lành hoàn toàn. Một vài ngày sau, cả gia đình đều được lành. Họ cảm thấy kinh hoàng và ngợi khen Chúa.

Chúa đã đặc biệt lựa chọn gia đình và căn nhà đó để làm nơi nhóm họp rất tốt. Gần như mỗi ngày, họ đều có những tín đồ đến nhà mình. Chính quyền thấy rất chướng tai gai mắt, thường sai những kẻ gây rối và dọa nạt họ. Nhưng cả gia đình Jian cùng họp lại cầu nguyện. Họ hứa nguyện phú thác mọi sự trong tay Chúa và không lo sợ gì hết.

Ba tháng sau, Jian nhận được sự kêu gọi giảng tin lành. Từ lúc đó, anh luôn luôn đi ra giảng tin lành và phục vụ mọi người. Lời giảng của Jian rất thu hút và có sức thuyết phục. Trên hết mọi điều đó, anh có một trái tim dành cho những linh hồn. Anh luôn luôn bằng nước mắt, giục dã mọi người hãy ăn năn và quay trở lại với Chúa. Và nhiều người trở lại với Chúa qua những lời giảng của anh. Có một ngày, Jian nghe nói có một đầy tớ Chúa, người anh em Ming, sống ở trên đồi, bị đi tù vì cớ tin lành. Vào năm 1974, anh bị kết án bảy năm tù. Jian đã cầu nguyện khẩn thiết cho người anh em Ming và gia đình anh. Vào ngày hai mươi ba tháng giêng 1975, vợ của Jian nói với chồng hãy đem lúa đi ra phố chợ bán. Với số tiền có được, anh có thể mua ít đồ ăn và thực phẩm chuẩn bị cho tết năm mới. Rồi anh ra đi, và bán được sáu Yuan. Sau đó anh đã nghĩ đến gia đình anh Ming và thấy thương họ. Anh quyết định đến thăm họ. Jian chỉ biết là anh Ming sống ở trên đồi, nhưng anh không biết cụ thể ở chỗ nào, và anh biết là nếu hỏi thăm người ngoài là thiếu khôn ngoan. Anh đã bắt đầu đi lúc trưa và mất sáu tiếng đồng hồ sau mới đến chân đồi. Lúc đó trời đã rất tối và có gai góc, bụi gai mọc dọc đường, thật sự là rất khó khăn. Tuy nhiên, Jian vẫn cứ đi tiếp. Vào tối mịt, Jian có thể nhìn thấy vài ánh đèn trên đồi. Anh đi theo hướng có ánh sáng. Vào lúc nửa đêm, anh mới tìm được nhà. Anh gõ cửa, và một ông già ra mở cửa. Khi ông thấy Jian, ông rất ngạc nhiên, bà cụ đứng sau đã mời anh vào. Tất cả họ đều ngồi bên đống lửa và ông già hỏi Jian đến từ đâu và tại sao anh lại đến vào lúc đêm hôm khuya khoắt này. Jian nhìn xung quanh và trông thấy một thiếu phụ trẻ ngồi bên hai ông bà, nhưng không thấy có đứa trẻ nào. Anh bắt đầu ngạc nhiên và hỏi “Có phải đây là gia đình của anh Zhang không?”

“Vâng, đúng rồi” bà cụ nhã nhặn trả lời.

“Vậy ở trong gia đình này có bao nhiêu người vậy?”

“Cộng tất cả lại là năm.”

“Thế còn hai người nữa ở đâu?”

“Một người là đứa cháu tôi, nó vừa tròn một tuổi. Bây giờ nó đang ngủ. Người còn lại là con trai tôi. Nó đang ở trại 'lao động' vì cớ tin lành. Và đây là con dâu tôi.”

Khi Jian nghe thấy điều đó, anh không thể không thốt lên, “Chúa ơi, cuối cùng Ngài đã đưa con đến nhà người anh em Ming.” Bố mẹ anh Ming và vợ anh đều rất ngạc nhiên. Jian nói với họ, tại sao anh đến đây và có điều gì đã xảy ra dọc đường. Jian lấy bốn Yuan ra và đưa vào tay bà cụ và nói, “xin bà hãy nhận lấy và mua sắm gì đó cho ngày tết năm mới”. Xong rồi, anh đứng lên và bắt đầu ra về. Nhà họ Zhang không làm sao giữ anh ở lại được. Nên họ tiễn anh ra cửa và xúc động khóc.

Khi Jian về nhà, vợ hỏi, anh ở đâu vậy? “Anh có đem gì về cho năm mới không?” Jian nói với vợ điều đã xảy ra và cô kêu thốt lên. Lúc đó, chưa đến hai mươi tám tháng giêng, với hai Yuan còn lại, Jian mới ra đi và mua ít thịt mỡ cho năm mới.

Vào buổi tối hôm Jian trở về từ nhà anh Ming, anh có buổi nhóm tại nhà anh. Anh nói cho tất cả các anh chị em về gia đình anh Ming và nói “Chúng ta có thể bớt phần ăn đi, để có thể giúp đỡ gia đình anh Ming.” Mọi người đều xúc động. Vào ngày hai mươi tám tháng giêng, một nhóm anh chị em đến thăm gia đình anh Ming. Họ đem theo gạo, bột, thịt mỡ, muối và giấm. Khi đến nhà anh Ming, tất cả họ đều khóc. Khi ra về, có vài người đã để áo choàng của họ lại cho nhà ông Zhang. Đó là lần đầu tiên trong những năm qua, nhà ông Zhang có một năm mới hạnh phúc. Nhưng Jian có một ước mong chưa được thỏa nguyện. Đó là đến thăm anh Ming, là người đã bị đi cải tạo vì cớ Đấng Christ. Lúc đó là vào một ngày đẹp trời mùa xuân năm 1976. Anh Ming đang làm việc ở vườn rau. Khi nhìn lên, thấy những cây ăn trái, anh cảm thấy rất buồn. Anh suy nghĩ về Hội thánh ở thành phố 'F' và ở tỉnh 'J', về những anh chị em đang bị tù, về bố mẹ, vợ và con trai và anh không thể kiềm được nước mắt.

Sau đó, người lính canh đến nói với anh là anh có người đến thăm. Vì thế, Ming đến phòng tiếp khách. Khi Ming bước vào phòng khách, có một người đàn ông đi lại bắt tay anh thắm thiết và nói, xin chào anh Ming, tôi là Cheng Jian. Rất mừng được gặp anh. Tôi đã dự định đến thăm anh.

Ming đã được nghe về Jian và gia đình anh và các anh chị em khác, là những người nóng cháy vì Chúa. Bây giờ, Jian đã đi một đoạn đường dài để thăm anh, làm anh rất xúc động, nên anh đã đưa Jian ra vườn rau. Jian kể cho Ming tình hình Hội thánh ra sao và về lần đến thăm đầu tiên của anh tại gia đình Ming. Cả hai đều khóc. Trước khi anh ra về, Jian đã đưa cho Ming năm hào trong một túi nhỏ. Ming không hiểu tại sao lại như vậy, nên Jian đã nói với anh: “Trên đường đến đây thăm anh, tôi gặp một cháu gái chừng mười mấy tuổi. Gia đình và bố mẹ cháu đều không tin Chúa và cháu hay bị phạt khi đi nhóm về. Cháu luôn luôn cầu nguyện cho Hội thánh và cho những người đang bị tù vì cớ tin lành. Cháu mong ước được đến thăm anh, nhưng vì cớ gia đình và lý do tài chính, cháu không thể đi được. Cháu nói với tôi, hãy đưa cái này cho anh, đây là số tiền cháu dành dụm được.

Khi Ming nghe thấy điều đó, anh không cầm được nước mắt và nói “Tôi không thể nhận cái này được. Anh Jian, anh hãy lấy tiền đó và mua một cái khăn tay cho cô em gái chúng ta. Hãy nói với em, hãy dùng chiếc khăn tay để lau nước mắt mỗi khi em cầu nguyện và khóc.” Trên đường về, Jian đã làm như Ming bảo anh. Anh mua một chiếc khăn tay bằng số tiền của cháu gái. Nên cô em gái càng cầu nguyện khẩn thiết hơn và dùng chiếc khăn tay để lau những giọt nước mắt.

Jian thường xuyên đến thăm gia đình Ming cùng với các anh chị em khác. Anh luôn luôn đến đây để giúp đỡ họ trong vụ mùa và để an ủi gia đình Ming trong những ngày lễ hội. Vợ của Ming đã rất xúc động, nên cuối cùng cô đã tiếp nhận Chúa. Cho nên, có một sự phấn hưng trong gia đình của Ming trước khi Ming ra tù.

4. Quả thật các ngươi sẽ uống chén mà ta uống (Mác 10:39)

Vào một buổi tối mùa xuân năm 1978, trong khi Jian đang giảng ở một làng không cách xa nhà anh bao nhiêu, anh đã bị bắt cùng với tám mươi anh chị em khác. Họ bị nhốt chung trong một phòng của căn nhà hành chính của đội sản xuất. Những người trong làng đến tập hợp bên ngoài và đả đảo họ, dùng những lời lẽ thậm tệ. Nên Jian đã hướng dẫn những tín đồ hát tôn vinh Chúa.

“Chúa Giê-xu đến Ghết-sê-ma-nê; Những tên lính đến để bắt Ngài; Giu-đa đến để hôn Chúa...”

Sau khi họ hát được mấy câu, thì họ bắt đầu khóc. Họ vừa khóc vừa hát như vậy trong một tiếng rưỡi đồng hồ, và càng ngày hát càng to hơn.

Trước khi trời tối, có một cô bé mười ba tuổi đến với Jian và nói, “Bác ơi, cháu đến dự buổi nhóm sau khi học về. Còn bây giờ cháu đã bị bắt. Nếu cháu không về nhà được hôm nay, bố cháu sẽ đánh cháu, và cháu sẽ bị đuổi học nữa.” Khi cô vừa nói xong, cô lớn tiếng nói và khóc.

Cánh cửa bị khóa và bị gài then chốt kim loại bên ngoài. Anh không thể mở được bằng sức lực của mình. Cô bé càng khóc to hơn. Trong phòng có hơn ba mươi chiếc ghế. Anh tự nghĩ “Có thể dùng những chiếc ghế này đập cho cánh cửa mở ra.” Vậy nên, anh đã cầm chiếc ghế lên và chuẩn bị đập vào cánh cửa. Nhưng thình lình, một người anh em nói “Kỳ lạ chưa, cánh cửa đã mở ra!” Tất cả họ đều giật mình và ngợi khen Chúa, sau đó chạy ra khỏi phòng. Jian thì ở lại trong phòng, bởi vì phải có một ai đó chịu trách nhiệm cho những điều đã diễn ra, và một vài anh chị em cũng ở lại phòng với anh. Vào lúc đó, cómột ông bác sĩ đi qua. Ông là người rất có uy tín trong vùng. Khi ông thấy điều xảy ra, ông nói: “Tốt hơn hết là các anh hãy chạy đi, dại gì mà ngồi đây chịu hình phạt? Bên cạnh đó, tin Chúa Giê-xu không phải là một tội hình sự trầm trọng. Tại sao lại ở lại? Hãy chạy đi!” Vì thế, họ đã chạy. Khi họ rời khỏi văn phòng, lúc đó trời đã tối.

Vào buổi sáng hôm đó, đội sản xuất có một buổi họp đột xuất liên quan đến chuyện những Cơ-đốc nhân kia. Quyết định cuối cùng là những Cơ-đốc nhân bị phạt sẽ phải trả tiền xem phim cho cả làng trong một năm.

Khi họ đến chỗ những Cơ-đốc nhân bị nhốt, họ kinh ngạc vì thấy cánh cửa mở và không có một ai ở trong đó. Chỉ có hai người có chìa khóa vào phòng: một người là bí thư và người kia là kế toán. Cho nên ông bí thư đi với một số người đến nhà của người kế toán. Họ hỏi vợ của ông kế toán, “Ai là người mở cửa cho những Cơ-đốc nhân tẩu thoát?”

“Không phải là chúng tôi đâu. Chúng tôi không hề mở cửa cho họ. Chúng tôi vô tội.” Vợ ông kế toán kêu la như hô hoán. Bà cầm lấy cổ áo ông bí thư và dồn ông ra ngoài, bắt ôngthề giữa trời rằng họ vô tội. Ông phải nhờ những nhân viên đi theo để thoát khỏi tay bà.

Nên họ đã trở lại văn phòng, mệt lả người và nói với nhau: “Chúng ta sẽ làm gì với những Cơ-đốc nhân này? Đi 'học tập' không ăn thua vì bọn chúng không sợ roi vọt và tra tấn. Cách duy nhất để truy quét chúng.” Họ cùng đi đến một ý kiến rằng, nếu các Cơ-đốc nhân bị bắt trong một buổi nhóm, chúng phải tìm một cây roi và bắt họ đánh lẫn nhau.

Vào tháng bảy cùng năm đó, Jian phải đi lao động công ích ba mươi lăm ngày. Và người đội trưởng chỗ anh làm sẽ thi hành lệnh đó. Jian rất bất bình. Anh cầu nguyện với Chúa khẩn thiết. Chúa nói với anh “Ta biết sự khó khăn của con...” Anh được an ủi và sự bình an trở lại trong lòng. Sau đó anh nghe một giọng nói rõ ràng trong lòng “Ngày mười hai tháng tư.” Jian nói “Chúa ơi, con ngợi khen Ngài. Dù cho ngày đó có xảy ra điều gì, con đã sẵn sàng. Con vui mừng làm theo ý muốn Ngài.”

Thời gian trôi đi nhanh chóng. Chẳng bao lâu đến ngày mười hai tháng tư năm sau. Lúc đến chiều, Jian có buổi họp với các bạn đồng lao. Trong khi anh đứng lên để đọc Lời Chúa, những công an an ninh đã ập đến. Chúng đánh đập anh. Jian ngã xuống nền nhà, máu me bê bết. Sau đó, chúng đưa anh đến đồn công an. Trên đường lên đồn công an, đôi giày của Jian hay bị tuột ra ngoài, nên anh đã cúi xuống để buộc chặt lại. Khi tên chỉ huy công an thấy vậy thì la lên “Mày làm gì thế?” Tuy nó biết anh cúi xuống để buộc dây giày, nhưng hắn vẫn ra lệnh tháo giày Jian ra. Con đường đó vừa mới làm xong, trải đầy đá nhọn sắc. Phải đi trên đó thật là đau đớn và Jian gần ngất xỉu. Sau đó, anh đã nghĩ về Chúa: Về con đường của Ngài lên Gô-gô-tha, Ngài còn phải mang một thập tự giá. Jian nói với Chúa, “Chúa ơi, tuy con đường con đi khó khăn, nhưng không thể so sánh với con đường Ngài đã đi. Cái chén con uống tuy đắng, nhưng vẫn không thể so sánh với cái chén mà Ngài đã uống.” Khi anh cầu nguyện xong, những viên đá dưới chân anh trở nên rất mềm. Jian nhảy lên và kêu to 'Ha-lê-lu-gia!'.

Cuối cùng, họ đến đồn công an an ninh, ở đó Jian bị hỏi cung. Anh không nói một lời nào, dù chúng có hỏi anh đến đâu. Tên chỉ huy công an rất giận dữ và ra lệnh đánh đòn anh. Vào lúc đó, có năm chị em tới, người lớn tuổi nhất chỉ mới mười chín. Họ đã cùng ở trong buổi nhóm của Jian vào buổi tối hôm đó và đã bị giải theo anh suốt dọc đường. Khi họ trông thấy Jian bị đánh, họ kêu lên, “Đấy là chúng tôi đề nghị anh ta giảng. Anh ta đã mắc tội gì? Nếu các ông muốn đánh anh ta, thì cũng hãy đánh luôn cả chúng tôi nữa.” Nên chúng đưa Jian qua một phòng khác và khóa cửa lại. Chúng còng tay anh lại đằng sau lưng và treo anh lên một xà nhà trong phòng. Nhưng mái nhà quá thấp và chân của Jian vẫn chạm được vào nền nhà. Nên chúng đã nghĩ ra cách tàn bạo hơn để làm cho Jian đau đớn. Chúng đã trói khuỷu tay Jian vào một xà nhà, sau đó buộc một cục đá to lên trên cây xà đó. Thật hết sức đau đớn. Anh tiếp tục cầu nguyện xin Chúa giải cứu mình. Cuối cùng anh ngất đi. Khi anh hồi tỉnh, lúc đó trời đã tối. Jian thấy mình vẫn còn ở trong căn phòng ngột ngạt đó và xung quanh có đầy muỗi. Anh suy nghĩ về đất nước mình và về sự nổi loạn chống lại Đức Chúa Trời; anh nghĩ về những anh chị em bị bắt vì cớ Chúa; anh nghĩ về Hội thánh và sự bị cô lập. Anh nghĩ về nhiều anh chị em đã ngã xuống, anh không kìm được nước mắt và khóc thổn thức. Hai ngày sau, Jian bị bắt phải làm việc. Anh bị bắt phải gánh cát để đắp đường. Nhưng vết thương anh chưa lành hẳn, nên anh đã ngất xỉu.

5. Còn ngươi hãy vững lòng bền chí

Đó là vào đêm mùa đông lạnh giá năm 1979; anh Ming vừa ra khỏi tù và đang giảng ở một buổi nhóm ở trong một làng kia. Jian cũng có mặt ở đó; anh là người hướng dẫn buổi thờ phượng. Chỗ nhóm chật ních người. Khi Jian đi vào, anh thấy có một nhóm người đang tán chuyện làm anh rất ngạc nhiên. Anh hỏi một người chị em, “Có điều gì xảy ra thế? Tại sao họ lại không hát?” Người chị em trả lời, giọng thì thào “Có một đảng viên đang ngồi đàng trước kia.” Jian bèn đi lên và ngồi bên cạnh ông ta. Anh tự nghĩ, “Nếu ông ta đứng lên làm mất trật tự buổi nhóm, anh sẽ kéo ông ta xuống.”

Jian đứng lên và hướng dẫn mọi người hát tôn vinh:

“Nguyện hết thảy cừu địch Ngài đều hư mất như vậy!
Nguyện những kẻ yêu mến Ngài được giống như mặt trời, khi mọc lên rực rỡ.”
(Các quan xét 5:31)

Khi họ vừa hát xong, Jian hướng dẫn họ cầu nguyện. Sau đó anh nói “Bây giờ chúng ta sẽ dâng thời gian còn lại cho đầy tớ Chúa là anh Ming” Nên Ming đã đứng lên, đi về phía trước và bắt đầu giảng. Anh giảng về sự tái lâm của Chúa và những dấu hiệu xảy ra vào thời kỳ cuối cùng. Khi họ đang lắng nghe bài giảng của Ming, thì ông đảng viên đứng lênnói “Hãy ngừng lại và đi theo tôi!” Ông nắm cổ áo Ming và tìm cách lôi anh đi. Vào ngay lúc đó, Jian chạy lại và dùng hết sức ôm chặt lấy ông ta. Jian siết chặt ông ta đến nỗi ông ta không cựa quậy được. Vào lúc đó, anh Ming đã chạy thoát. Thế nên ông càng tức giận; ông thét vào Jian, “Tôi biết anh làm gì rồi!”

Jian đáp thẳng thừng “Tôi cũng biết ông làm gì chứ! Tôi biết động cơ của ông!”

“Tôi biết động cơ của ông!” Jian nói tiếp, “Ông chỉ bắt bớ những Cơ-đốc nhân chúng tôi;đó là tất cả những gì ông làm. Ông chỉ đến ngăn cản những buổi nhóm chúng tôi, nhưng chúng tôi không bao giờ ngăn cản ông. Đó là loại chính sách gì vậy?”

“Tôi là một đảng viên, anh phải nghe theo tôi!”

“Không, chúng tôi không nghe theo các ông; chúng tôi chỉ nghe theo Chúa mà thôi.”

Sau khi Ming đã chạy khỏi, Jian buông ông đảng viên ra. Sau đó anh hướng dẫn mọi người tiếp tục hát tôn vinh. Và rồi anh kết thúc buổi nhóm.

Tất cả đều trở về nhà; không một ai để ý đến ông đảng viên. Ông ta giận điên người và hăm dọa rằng “Hãy đợi đấy!”

Vào ngày hôm sau, đội sản xuất đã tố tụng các Cơ-đốc nhân lên cho công an an ninhhuyện. Mấy ngày sau, ông cán bộ đảng đó đã đi với một toán lính đến nhà của Jian. Ông ta cười vỗ vỗ vai Jian và nói “Hôm nay tôi mời anh lên uống nước chè với tôi; hãy đi theo tôi.” Sau đó, ông bảo với những kẻ đi cùng, “Hãy trói hắn lại!” Jian bị bắt giải lên văn phòng đội sản xuất; khi ông bí thư chủ tịch trông thấy anh, ông quát vào mặt Jian “Có phải anh là thằng Jian khốn kiếp đó phải không?”

Jian vẫn tỉnh khô. Ông cán bộ đảng liền điên tiết đánh vào trán Jian “Đồ khốn nạn, đất nước chúng ta thật vững mạnh và hùng cường; con người sống một đời sống rất sung sướng, không ai bị đau khổ. Tại sao mày lại tấn công đất nước chúng ta?” Jian thấy kinhngạc. Anh không hiểu điều ông ta nói. Ông bèn tát má Jian và nói “Đừng giả vờ nữa! Mày là đứa đã lãnh đạo sự cầu nguyện trong buổi nhóm ở làng Guo.”

“Đúng thế,” Jian trả lời.

“Sau khi cầu nguyện xong, mày nói 'bây giờ chúng ta dâng thời gian còn lại cho những sự đau khổ.'” (Chữ đầy tớ và đau khổ phát âm gần giống nhau.)

“Không, tôi không hề nói như vậy.”

“Mày còn dám cãi nữa à! Đến khi chúng ta có tất cả các bằng chứng, thì mày liệu hồn.”Ông cán bộ đảng chạy lại và đấm vào đầu Jian. “Chính tai tao đã nghe mày nói, hiểu chưa.”

Lúc đó Jian mới vỡ lẽ điều ông ta nghĩ; anh nói: “À, tôi hiểu ra rồi, tôi có nói, 'Bây giờ chúng ta sẽ dâng thời gian còn lại cho đầy tớ Chúa', chứ không phải là cho những sự đaukhổ.” ông đã nghe nhầm điều tôi nói. Ông bí thư chủ tịch, có nhiều kinh nghiệm trong việc xử trí với Cơ-đốc nhân, và ông có một vài kiến thức về từ ngữ của họ hay dùng. Saukhi Jian giải thích, ông bắt đầu hiểu. Nên ông nói: “Thôi được rồi. Ông X đã nghe nhầm. Nhưng tên đầy tớ có nghĩa là gì vậy?”

Jian đáp: “Tên gì mới được chứ? Đầy tớ là một đầy tớ. Một tên đầy tớ là một đầy tớ. Nó còn có tên nào khác nữa.”

Ông bí thư chủ tịch rất thất vọng; ông nghĩ, Jian chỉ là một gã nông dân dốt nát. “Đồ ngu! Mày mà cũng không biết đầy tớ có nghĩa gì à. Mày là loại người giảng đạo gì vậy?” Nên ông đã thôi không theo đuổi sự việc thêm nữa. Nhưng ông căm ghét Đức Chúa Trời và những Cơ-đốc nhân, và ông bắt đầu nói phạm thượng Đức Chúa Trời và sự giáng sinh của Chúa Giê-xu bởi nữ đồng trinh. Jian tức giận; anh đứng lên và đập tay vào bàn. Anhmắng ông chủ tịch, “Ông hãy câm đi! Đừng nói xúc phạm đến Đức Chúa Trời của tôi!Ông nói tôi không biết gì. Nhưng còn ông thì biết những gì? Thậm chí ông còn không biết chính sách của đảng nữa kìa.”

Ông chủ tịch thẹn tím mặt; ông thuỏng cho Jian một cái tát. “Được. Hãy nói cho tao biết đi, mày biết điều gì?” Những tiếng nguyền rủa và nạt nộ phừng phừng kéo theo, nhưng Jian là một con người vui tính; ở ngay trong hoàn cảnh đó, anh đứng thừ người và cảmthấy buồn ngủ. Khi ông bí thư chủ tịch thấy như vậy, ông càng tức giận hơn. Ông lại tát vào mặt Jian. Jian vẫn đứng như vậy và gật gù buồn ngủ. Cuối cùng anh cũng được thả ra.

Vào một ngày mùa đông đổ tuyết khác năm 1978, Jian thức dậy vào buổi sáng sớm để cầu nguyện giữa trời tuyết. Anh tự nghĩ, “Thật là một cơ hội quí giá để ra đi giảng tin lành.” Bình thường, nếu anh đi ra truyền giảng, anh phải xin phép đội trưởng sản xuất cho nghỉ mấy ngày. Bởi vì trời tuyết, nên anh không phải làm thế; anh cứ việc đi. Khi Jian đi vào nhà lấy Kinh thánh, con trai anh nói “Bố ơi, bố cho phép con nói điều này không?”

“Tất nhiên rồi, điều gì thế con?”
“Nếu bố đi lần này, bố có thể mua cho chúng con một cái bơm máy được không?”
“Để làm gì thế con?”
“Bởi vì bố và mẹ thường hay bị bắt và bị nhốt trong tù, và chúng con thì còn nhỏ. Nếu
chúng con đi lấy nước, chúng con rất khó khăn. Nếu bố có thể mua cho chúng con một
cái bơm, và chúng ta có thể đào một cái giếng trước sân nhà. Để cho, nếu lần sau bố bị
bắt, chúng con vẫn có nước uống.”

Jian rưng rưng nước mắt; anh nói trong thâm tâm “Chúa ơi, con cám ơn Ngài, vì ngay cả con trẻ cũng biết sự bắt bớ gian khổ là gì.” Jian đi lên tỉnh, anh tìm mua một cái máy bơm. Bây giờ chính quyền biết Jian là một con người có nhiều ảnh hưởng và anh sẽ không chịu luồn cúi, nên họ đã nghĩ ra một mưu kế. Cơ quan huyện gởi cho anh một lá thư mời anh đến dự một buổi họp cấp huyện và trở thành một thành viên của ủy ban. Khi đội sản xuất nhận được lá thư, họ đã ghen tức: “Cái gì? Mời tên Cơ-đốc nhân này lên họp trên huyện à?” Họ không biết làm gì hơn là tuân theo mệnh lệnh. Nên họ đã cử hai đảng viên đưa lá thư đến cho Jian.

Khi họ đến nhà của Jian, họ nói rất từ tốn. “Anh đến dự cuộc họp trên huyện là một vinh dự đối với chúng tôi. Anh phải cố gắng và nói là chúng ta đã làm việc tốt ra sao.” Jian cầm lấy lá thư và đọc, để sang một bên và nói, “Tôi chỉ là một nông dân, làm sao tôi có thể là một thành viên ủy ban được?”

Họ đến với Jian ba lần bốn lượt, nhưng Jian vẫn phớt lờ. Cuối cùng, chính quyền huyện đã gọi điện thoại cho đội sản xuất bảo phải làm sao cho Jian đến cuộc họp trên huyện. Nhưng Jian vẫn không chịu đi. Nhà cầm quyền tức giận và cử một cán bộ đến gặp riêng Jian.

Đội sản xuất gọi Jian lên, nhưng Jian từ chối không lên. Anh nói: “Tôi phải làm mấy thứ đồ gỗ, phải đến một thợ mộc, nên không đi được.” Người cán bộ rất bực mình.

“Họ đã cử một cán bộ để đến gặp anh và anh vẫn không chịu đi. Anh...”

Jian tiếp tục nói, “Nếu có điều gì cần thiết, hãy nói với ông ta đến thẳng nhà tôi.” Ông cán bộ không biết làm gì nên ra về.

Sau đó, ông ta đến nhà Jian cùng với các nhân viên. Jian đứng dậy và để cho những nhân viên ngồi trên chiếc giường gãy của mình. Người cán bộ thấy khó chịu và một lúc lâukhông nói được câu nào. Sau đó Jian nói với ông ta một cách đàng hoàng “Ông muốn gì ởtôi?” Ông cán bộ nhìn vào Jian và hỏi anh, “Anh có nhận được 'Mười không', mà chúng

tôi đã đưa cho anh chưa?”
“Chưa,” anh trả lời.
Ông cán bộ đảng xen vào, “Chúng tôi đang lược thảo. Nhưng chúng tôi rất bận; chúng tôi

vẫn chưa đưa.”

“Tôi chưa nhận được; tuy nhiên, tôi có nghe nói về những điều đó. Có phải trong đó nói
rằng không ai dưới mười tám tuổi được trở thành Cơ-đốc nhân không?”
“Đúng thế.”
“Không được cầu nguyện cho người bệnh? Không được đuổi quỉ?”
“Đúng y như vậy.”
“Tôi không cần biết là có bao nhiêu không trong đó, nhưng vừa mới xem những điểm đầu

tiên, tôi không thể chấp nhận được.”
“Anh dám bài bác sao?”
“Không, đó không phải là bài bác. Hãy để cho tôi hỏi các ông: Tôi có năm đứa con, đứa

lớn nhất vừa mới mười tám. Chúng tôi có năm buổi nhóm chiều mỗi tuần. Vào mùa xuân trời hay mưa, mùa thu trời gió và mùa đông thì lạnh. Tôi có thể nào để con tôi ngoài trời và để chúng đợi đến khi buổi nhóm kết thúc chăng? Nếu các ông là tôi, các ông có làm như vậy không?”

Ông cán bộ câm tịt, nên ông đã thay đổi đề tài. Và ông hỏi Jian, “Tại sao anh lại không

đến cuộc họp trên huyện?”
“Tôi không thể chấp nhận 'mười không' của các ông được! Và đó là lý do tại sao tôi lại
không đi.”

“Đó không phải là chúng tôi đưa nó ra; nhưng là do một mục sư trong tỉnh đề ra. Ông ta
biết Kinh thánh giỏi hơn anh.”
“Ông ta có tin Chúa Giê-xu không?”

“Tất nhiên rồi. Làm sao ông ta là mục sư mà không tin Chúa Giê-xu được?”
“Không, tôi không tin là ông ta tin Chúa Giê-xu. Vì trong Kinh thánh chỉ có 'mười điều
răn' thôi; chứ không có cái gì gọi là 'mười không' cả. Tôi phản đối kịch liệt loại giả hình
tôn giáo này.”

“Tôi không tranh luận với anh. Lý do tôi đến đây hôm nay là mời anh tham dự nhà thờ ba độc lập của chúng tôi và ủng hộ công việc của chúng tôi.”

“Trong Kinh thánh không có loại nhà thờ 'ba độc lập' nào cả, và tôi sẽ không đi theo.”

“Liên kết với chúng tôi không có nghĩa là anh không được cầu nguyện hay nhóm họp. Thế thì tại sao anh lại không nghe chúng tôi?”

“Chúng tôi chỉ nghe theo Đức Chúa Trời, chứ không nghe theo con người.”

Ông cán bộ trở nên giận dữ và ông nói: “Nếu không liên kết với tổ chức tôn giáo của chúng tôi, tất cả mọi buổi nhóm trong nhà anh đều là bất hợp pháp và sẽ bị đình chỉ.”

“Không, chúng tôi không ngưng nhóm. Kinh thánh không nói bỏ sự nhóm họp lại với nhau.”

“Nếu anh không ngừng lại, anh sẽ phải chịu trách nhiệm về mọi tội phạm hình sự trong làng.”

“Nếu đó là lý do an ninh, thì các ông hãy ngưng chiếu những loại phim ảnh và các cuộc chơi. Chúng tôi chỉ ngừng nhóm khi những cái đó cũng ngưng.”

Mười ngày sau, ông chủ tịch gọi Jian lên văn phòng đội sản xuất và nói: “Lần cuối cùng tôi thông báo cho anh biết rằng không được sự chấp thuận của chúng tôi, tất cả những buổi nhóm trong nhà anh là bất hợp pháp. Tại sao ông lại không thể nghe theo và ngừng nhóm đi?”

Jian tươi cười, “Ông có nhớ sự thỏa thuận của chúng ta không? Chúng tôi chỉ ngừng nhóm lại khi mọi hoạt động khác trong làng cũng bị ngừng. Đó là ông đã vi phạm sự thỏa ước giữa chúng ta, không phảo tôi. Tại sao ông lại có thể trách tôi vì điều đó?”

Ông chủ tịch nghiến răng và nói: “Những người cộng sản cuối cùng cũng sẽ giỏi hơn anh. Anh hãy đợi đấy!”

“Được, nếu ông cứ vô lý như thế, tôi nghĩ rằng tốt hơn hết là tôi ra về.”

“Anh sẽ phải chịu hoàn toàn hậu quả.”

“Đức Chúa Trời của tôi sẽ chịu những hậu quả.” Jian trả lời to, sau đó anh đã ra về và không thèm ngoái đầu lại. Cuối cùng họ đã trình thưa trường hợp của Jian lên công an an ninh ở thành phố 'B'.

6. Thế gian không xứng đáng cho họ (Hê-bơ-rơ 11:38)

Vào một ngày kia, Jian nghe thấy một giọng nói rõ ràng trong lòng anh, “Con phải rời khỏi gia đình trong vòng ba ngày.” Vào buổi tối hôm đó, trong khi Jian đang giảng, Chúa lại nói với anh lần nữa, “Hãy chọn một ai đó để đảm trách công việc của con; hãy khăn gói và đi càng sớm càng tốt.”

Sau buổi nhóm, Jian gọi tất cả các anh em nhân sự lại và nói với họ. Sau khi đã thực hiện xong sự xếp đặt, họ cùng dâng Jian lên cho Chúa và khóc. Sau đó, họ đều ra về. Đến khi Jian về nhà, anh đem theo một ít đồ đạc: một quyển Kinh thánh và một vài quyển ghi chú. Sau đó, vợ và các con tiễn anh ra cửa. Lúc Jian ra đi, trời đã tối đen như mực.

Ba ngày sau, một chiếc xe công an đến đậu trước cửa nhà Jian. Một số công an và một toán binh lính đã đi thẳng vào nhà. Họ lục soát căn nhà, nhưng không tìm thấy Jian. Nên họ đã hỏi cung vợ Jian và các con, nhưng tất cả đều nói không biết Jian ở đâu. Sau đó, họ quay sang đứa con gái của Jian, mười ba tuổi. Họ xách tai đứa bé lên và hỏi “Bố mày ở đâu?” nó trả lời “Tôi không biết!” Chúng tát má cháu; máu mồm và máu mũi chảy ra. Một tên trong bọn định treo cháu lên, nhưng cháu rất nhanh chân chạy vụt ra khỏi nhà, trước khi chúng có thể bắt được, cháu đã chạy trốn xuống một cái hố. Nước ở đó ngập sâu và bẩn, nên chúng không hành hạ cháu nữa và bỏ đi.

Kể từ ngày đó, Jian sống trốn tránh trong hai mươi mốt tháng. Anh Ming, chị Bài và một vài anh chị em khác nữa cũng như vậy. Họ thuòng ngủ đêm trên đồi, trong rừng, trong bụi cây và trên những cánh đồng. Họ phải chịu giá lạnh và gió rét và bị muỗi cắn. Họ không thể đến nhà của những tín đồ trước khi trời tối. Và Chúa luôn luôn giải phóng họ khỏi tay kẻ thù. Họ và công an cứ giống như chơi trò 'ú tim'. Bất kỳ lúc nào có cơ hội, họ đều giảng tin lành và nhắc nhở anh chị em hãy phục vụ Chúa hết lòng.

Có một thời kỳ, công an an ninh đã đuổi sát gót họ; họ dường như thở không kịp. Nên họ đã đến một thị trấn có tên 'He-Ping' thuộc tỉnh 'R'. Tình hình an ninh ở đây rất căng thẳng, nên các anh chị em không dám đón tiếp họ. Không thể đi đâu được, nên họ đã ra một chuồng ngựa. Thấy đâu cũng có phân ngựa; thậm chí không thể tìm được một chỗ để đứng. Cuối cùng, họ nhặt được một ít rơm, rồi chui vào đó mà ngủ. Trời càng khuya càng trở nên lạnh, họ đều run rẩy. Nên họ đã quyết định đi ra khỏi chỗ đó và chạy bộ để chống lại cơn lạnh. Trong khi đang đi ngoài đường, họ gặp anh Ming và anh Yun. Và họ đã cùng chạy với nhau rời khỏi tỉnh 'R'.

Khi họ đến một vùng có tên là Liu Shan, Jian muốn đến thăm một người bà con ở đây và để xem gia đình họ sống ra sao. Anh Ming biết rằng gia đình này vì cớ Jian mà sẽ chịu nhiều khó khăn, nên khuyên Jian phải trở về sớm và không ngủ đêm lại đó. Khi Jian đến nhà người bà con, anh được tiếp đón nồng hậu, họ không muốn để cho anh đi, nên Jian đã ở lại. Vào nửa đêm, khi Jian đang ngủ, thì những người bên công an an ninh ập đến, họ bao vây căn nhà và lục soát từng phòng. Ở trong nhà có bốn phòng. Khi họ lục soát đến phòng thứ ba, Jian rất sợ hãi, nên anh đã giao phó mình trong tay Chúa. Sau đó anh nhận thấy có một cái hòm bên cạnh chiếc giường. Nên anh đã giở nắp ra lấy chăn chiếu trong đó để lên giường và anh thì chui vào trong hòm và đậy nắp lại. Khi Jian trốn xong thì các tên công an vào. Họ quét đèn pin tìm anh mọi nơi. Một trong những tên đi theo đã lấy gậy đập trên nắp rương. Jian sợ là chúng sẽ giở nắp rương, nhưng chúng đã không làm điều đó. Sau đó một lúc chúng bỏ ra về.

Sau khi những công an an ninh đã ra về, những người họ hàng của Jian đã chạy vào tìm anh. Họ tìm anh trong mỗi căn phòng, nhưng không thấy anh đâu. Jian không biết đó là họ, nên anh không dám cựa quậy. Sau đó bà cụ vào lo lắng nói, “Anh ta đi đâu rồi kìa?” Jian nhận ra đó là bà cụ, bèn nói, “Cháu ở đây. Họ đã đi khỏi chưa?” và anh đứng dậy. Khi họ thấy anh. Họ thật sung sướng và ngợi khen Đức Chúa Trời. “Đúng là chúng tìm chúng tôi; tốt hơn hết là tôi phải đi và báo cho các anh em biết.” Nên Jian đã chạy bộ ba mươi cây số và cuối cùng tìm đến chỗ Ming và những người khác ở và họ đã chạy ra cánh đồng ngủ đêm ở đó.

Vào một buổi tối, Jian trở về nhà và ở đó ba ngày. Ban ngày, vợ anh và các con đi ra đồng làm việc và cửa nhà thì khóa. Những lúc anh ho hay hắt hơi, anh phải trùm chăn lại; và anh cảm thấy rất cô đơn. Vào buổi tối thứ ba, Sa-tan đã đến tấn công anh. Trong khi anh đang ngủ, có một con chuột cống đã đến cắn vào cánh tay anh, làm thương một cái gân tay và chảy máu rất nhiều. Chỗ chảy máu không cầm lại được. Cả gia đình anh quì gối xuống cầu nguyện và kêu cầu lên Đức Chúa Trời; thình lình máu ngưng lại. Nhưng tay của anh vẫn bị sưng và rất đau.

Jian trở lại chỗ Ming và những người khác. Anh đi đến nhiều nơi. Bất kỳ nơi nào anh đi, anh đều gây dựng Hội thánh và tìm cách trốn tránh công an an ninh.

7. Họ được kể là xứng đáng chịu nhục vì danh Chúa (Công vụ các sứ đồ 5:4)

Jian, Ming, Yun và một vài người khác đã tổ chức một lớp huấn luyện vào tháng giêng năm 1984. Vào buổi tối đó anh đi ra sân đằng sau nhà; anh quì gối xuống tuyết và cầu nguyện. (Sự kiện này được nhắc lại trong câu chuyện 'Người Công Dân Thiên Quốc') Chúa đã chỉ cho anh rất rõ là trong ba ngày nữa, một vài người trong số họ sẽ bị bắt.

Vào buổi sáng thứ ba, khi họ đang nhóm lại với nhau, Jian đứng lên và nói: “Hôm nay có vài người trong chúng ta sẽ bị bắt vì cớ Chúa. Chúng ta hãy cầu nguyện dốc đổ cho những người đó.” Vào buổi tối đó, Jian, Yun và ba người khác đã bị bắt trên đường về nhà sau buổi nhóm.

Công an đánh Jian bằng một cây gậy, nhưng kỳ lạ là anh không cảm thấy đau đớn gì. Khi họ thấy những cây gậy giáng trên người không ăn thua gì với Jian, chúng đẩy anh xuống nền nhà và trói quặt tay anh đằng sau lưng. Từ khi anh bị chuột cắn, cánh tay anh vẫn còn bị thương, nên nếu anh bị trói ngoặt lại như vậy, rất có thể anh sẽ bị tật nguyền. Điều kỳ lạ là tay phải của Jian bị vết thương bấy lâu nay, sau khi anh bị trói đã không bị đau nữa.

“Anh đến từ đâu?” Chúng hỏi anh.

“Tôi đến từ thành phố 'F'”. Tôi chỉ đi ngang qua đây. Khi tôi thấy có buổi nhóm ở đây, tôi mới vào xem.” Jian trả lời.

“Buổi nhóm ở đâu, hãy đưa chúng tôi đến đó.” Chúng ra lệnh cho anh, nên Jian đã đưa họ đến một trường trung học và đứng bên ngoài.

“Đây, đây là địa điểm.” Các công an an ninh và binh lính nhảy xổ vào trong. Có một nhóm thầy giáo đang chuẩn bị giáo án. Khi họ thấy công an đi vào thì một người đứng lên hỏi “Các anh làm gì ở đây?”

Công an an ninh tỏ ra rất bực tức; nên chúng càng đánh Jian nhiều hơn. “Hãy khai ra đâu là chỗ nhóm lại? Nếu mày không nói cho chúng tao biết, chúng tao sẽ giết mày!” Jian muốn cho các anh em biết là công an an ninh đến nên đã lớn tiếng nói: “Tại sao các ông lại đánh tôi như vậy? Tôi đã quên họ nhóm lại ở đâu rồi.”

Cùng lúc đó, Yun đã được các công an giải đến. Nên anh đã la to, “Tôi đến từ thiên quốc; tôi không biết họ nhóm lại ở đâu.” Các anh chị em ở nơi nhóm lại nghe thấy tiếng nói của Jian và Yun, nên họ đã dời sang nơi khác ngay. Công an biết rằng họ đã bị lừa, nên rất tức giận. Chúng nói “Thôi bây giờ hãy đi, về đồn, chúng mày sẽ biết tay.” Chúng đẩy Jian lên chiếc xe tải. Bởi vì tay Jian bị trói, anh đã bị tuột xuống và ngã xuống tuyết. Bọn lính xốc anh lên và quẳng anh lên thùng xe. Đầu anh đập vào thành xe, anh bất tỉnh. Khi những anh chị em thấy điều đó, họ rất đau buồn và khóc; họ không dám nói một lời nào.

Chúng đưa Jian và ba anh em kia đến đồn công an Shi Lin. Khi họ đến, Yun đã có mặt ở đó; tất cả đều bị còng tay. Năm người họ run rẩy vì trời lạnh, nên họ đã quì gối xuống cầu nguyện, và họ đã cầu nguyện dốc đổ.

Sáng sớm hôm sau, họ bị đưa ra sân sau để xúc tuyết. Sau đó, Jian,Yun và một anh em bị đưa đến nhà tạm giam. Ở đó đã có tám người. Khi cai tù thấy hai người mới đến, hắn chống nạnh, nhìn họ gườm gườm. Hắn thét lên rằng “Hãy lại đây!” Jian và Yun vâng lời, sau đó hắn nói: “Bây giờ tao sẽ cho chúng mày làm vài việc – đó là 'câu cá' và 'chạy xe máy'.”

Cái gọi là 'câu cá', là một hình thức tra tấn rất dã man. Tù nhân phải lấy một cọng rơm cho vào miệng và nhúng vào thùng nước tiểu. Sau đó phải thổi thành những cục bong bóng cho đến khi nước tiểu bắn đầy mặt. Tên cai ngục cứ cười và diễu cợt, “Chúng mày có nhận được gì không?” Loại hình tra tấn thứ hai 'chạy xe máy' là: tù nhân phải ngồi chồm hổm, giống như ngồi trên ghế, và giơ hai tay ra, phải làm tiếng còi xe lửa hú. Nếu ai không làm được, hay ngừng làm, sẽ bị hình phạt nặng nề. Chao ôi! Đã có bao nhiêu đầy tớ trung tín của Chúa đã bị làm nhục và hành hạ ở đây. Quả thật, thế gian không xứng đáng cho họ. Tên cai ngục ra lệnh cho những tù nhân khác đánh Yun. Sau khi Yun bị đánh, anh ngã xuống nền nhà. Còn những tù nhân khác thì đạp lên anh. Máu chảy xối xả từ miệng; anh như là gần chết.

Đầu tiên Jian và Yun giả vờ họ không biết nhau. Nhưng khi Jian thấy Yun bị đánh quá chừng, anh không thể giả vờ được nữa. Anh chạy lại với Yun, đỡ anh và khóc. Anh xin Chúa hãy an ủi và che chở Yun, và anh đã chùi máu đang trào nơi miệng Yun.

Sau đó ít ngày, những tù nhân thấy Jian thật dễ mến và dễ gần, họ bắt đầu thích anh và họ nói anh hãy hát cho họ một bài hát. Nên Jian đã bắt đầu hát và anh đã chia xẽ tin lành cho họ, trong khi đó Yun cầu nguyện dốc đổ cho họ. Họ đã làm điều đó trong ba ngày liền. Vào ngày thứ tư, Jian bắt đầu hát, sau khi anh đã thức dậy:

“Hôm nay là một ngày tuyệt vời;
Là ngày Chúa đã dựng nên;
Ngài dọn bàn cho tôi trước mặt kẻ thù nghịch tôi.
Ngày hôm nay Chúa ở với tôi.”

Những tù nhân khác chú ý lắng nghe; dường như họ hiểu những gì Jian đang hát. Sau khi ăn sáng, xe công an đến đưa Jian đi. Những tù nhân khác rất ngạc nhiên, họ nói với nhau,“Ô! Thật con người này là cái gì đó; Nó hát về một ngày tuyệt đẹp hôm nay và bây giờ thì được thả ra!” Họ bắt đầu suy nghĩ về những gì Jian đã chia xẽ với họ trong những ngày vừa qua và một vài người trong số họ đã tiếp nhận Chúa.

Trong lúc đó, thì công an an ninh đã khóa còng tay và xiềng chân Jian lại và trói anh vàoghế xe công an. Họ đi chưa được bao xa thì chiếc xe bị hỏng và dừng lại. Ông chỉ huyquát vào mặt Jian, “Tao cấm mày chạy!” Jian tươi cười “Ông có đùa không? Tôi bị còng tay và xiềng chân, lại bị trói chặt vào ghế xe, làm sao tôi có thể chạy được?”

Tên chỉ huy tức giận và nói: “Cấm mày cười! Chúng tao phải tốn vài nghìn Yuan để bắt mày, và bây giờ thì cái xe bị hỏng; mày phải trả giá cho mọi cái.”

Jian mỉm cười nói: “Tôi không đòi hỏi ông làm điều đó. Đó không phải là lỗi tại tôi.”Ông chỉ huy lấy ra một cái roi kim loại và ném vào Jian. Jian quay đầu để tránh, nhưng anh không thể tránh được, nó đã đập vào trán và trán anh bị thương nhẹ và bắt đầu chảy máu.

Trong lúc đó có một đám đông vây xung quanh họ. Vài người thì nguyền rủa và nhổ nước miếng vào anh, nhưng những người khác thì chỉ tay vào công an và nói, “Người gì mà vô nhân đạo quá.” Công vụ 5:41 liền đến trong tâm trí anh: “Hãy vui mừng vì họ đã được kể là xứng đáng chịu nhục vì danh Chúa.” Jian mỉm cười. Những người xung quanh thấy rất kinh ngạc và nói, “Người này là giống gì vậy?” Có nhiều cặp mắt nhìn vào, ông thủ trưởng không biết phải làm gì. Nên đến khi chiếc xe đã sửa được, họ liền chạy mất.

Chiếc xe chạy đến và đứng bên ngoài cổng nhà tù. Những tên lính canh gác đẩy Jian xuống khỏi xe và ông chỉ huy hỏi anh “Anh có biết chỗ này không?”

“Không”

“Không? Đây là nhà tù nổi tiếng ở thành phố 'F', và đây là chỗ của anh.”

“Chỗ của tôi? Ha,ha!”

“Đừng có mà tẩu thoát! Nếu mày chạy trốn, mày sẽ chết ở đây!”

Không khí trong nhà tù rất căng thẳng đến nỗi kẻ mới đến không dám thở. Jian bị lục soát khắp thân thể, cả thắt lưng và dây giày của anh cũng bị tịch thu. Jian bị đưa đến một căn phòng và một tù nhân già ở đó nói với anh rất nghiêm túc “Anh đừng tin những gì họ nói, anh phải nói sự thật.” Jian mỉm cười và nói “Xin cám ơn về sự quan tâm của ông. Tôi tin vào Chúa Giê-xu, không có gì để giấu cả. Bên cạnh đó, Chúa của tôi sẽ lo cho tôi.”

Vào buổi chiều hôm đó, Jian bị tra khảo. Họ hỏi anh về Hội thánh ở huyện 'B'. Jian dạn dĩ và can đảm; anh sử dụng sự khôn ngoan mà Đức Thánh Linh ban cho anh để trả lời những câu hỏi. Chúng cởi áo anh ra và đánh đòn anh. Anh nghiến răng chịu đựng và không hé môi kêu chút nào.

Những kẻ tra tấn điên khùng đó dùng mọi loại tra tấn để hành hạ anh. Khi chúng dùng một thanh sắt nung đỏ để gí vào thân thể anh, anh không thể chịu được. Anh kêu lên “Cha ơi, xin hãy giải cứu đứa con của Ngài!” Sau đó anh ngất đi. Một xô nước lạnh xối lên anh, Jian hồi tỉnh trở lại. Sau đó lại là sự tra khảo và tra tấn tiếp tục. Điều đó lặp đi lặp lại năm sáu lần; Jian bị thương nặng.

Bảy tháng trôi đi. Vào một đêm Chúa chỉ cho Jian. Khi cây cối bắt đầu đâm chồi, con sẽ rời khỏi đây. Mùa đông đã đi qua, mùa xuân đã đến. Hằng ngày Jian nhìn ra cửa sổ xem cây cối có đâm chồi chưa. Đó là một ngày đẹp trời, buổi sáng còn mờ mờ và mặt trời vừa mới chiếu những ánh đầu tiên. Jian đã quì gối trong xà-lim cầu nguyện mấy tiếng đồng hồ. Khi anh mở mắt ra, thấy ánh sáng chiếu rạng và anh đứng lên, vỗ tay và ngợi khen Chúa. Bỗng nhiên anh nhìn thấy một cành cây vắt ngang qua cửa sổ và bắt đầu đâm chồi nẩy lộc.

Nước mắt rưng rưng và anh nói thầm “Chúa ơi, con ngợi khen Ngài. Tuy con không biết điều gì xảy ra phía trước, con xin phú thác mọi sự vào tay Ngài. Chúa ơi xin hãy gìn giữ con.” Trong những ngày sắp tới, Jian bị kết án tù hai năm vì đã gây rối an ninh quốc gia.

Jian bị bắt đưa đến trại cải tạo ở Xin-Yan. Đó là một trại cải tạo khét tiếng trong tỉnh. Ở đó tù nhân bị hành hạ tàn bạo. Mỗi tù nhân chỉ được phát cho một bát cơm mỗi ngày và phải làm việc nặng nhọc mỗi ngày trên mười hai tiếng. Đó là lý do tại sao các tù nhân rất gầy ốm. Ngoài ra, họ còn bị đánh đập và tra tấn nữa.

8. Ngài bẻ ra..., đưa cho các môn đồ và họ ăn (Lu-ca 9:16,17)

Bạn càng luyện vàng bao nhiêu, nó càng trở nên tinh ròng bấy nhiêu. Tuy mỗi ngày thể lực Jian càng trở nên yếu hơn, nhưng trái tim anh càng ngày càng được đổi mới và anh càng trở nên mật thiết với Chúa hơn. Jian không bỏ lỡ một cơ hội nào để bày tỏ tình yêu đối với mọi người và cứu vớt những linh hồn.

Trong phòng anh có hơn hai mươi người. Anh vui tính và dễ gần, và những tù nhân khác nhìn vào anh như nhìn thấy một người cha. Bởi vì nhân cách đôn hậu của anh mà có nhiều người đã tiếp nhận Chúa.

Hai năm trôi qua, trước khi Jian được thả ra, anh được gọi lên. Họ nói với anh “Mọi người đều được thay đổi mỗi khi họ ở đây. Bây giờ anh đã ở đây hai năm, anh có thay đổi không?”

Jian tươi cười trả lời “Chúa Giê-xu sống trong lòng tôi; không cần biết là tôi phải ở đây bao nhiêu năm, mười hay hai mươi năm, tôi vẫn không thay đổi. Nếu các ông có giết tôi,Chúa Giê-xu sẽ đưa tôi về trời.” Ông ta rất tức giận, ông chỉ ngón tay vào mũi Jian và nói “Nếu tao còn bắt được mày nữa, tao sẽ làm thịt mày!” Sau đó ông hét lên “Hãy cút ngay!” Jian vui mừng đi khỏi.

Gia đình của Jian đã phải chịu bắt bớ và hành hạ nhiều vì cớ Chúa. Họ luôn luôn nhận được càng ít lúa giống và càng xấu hơn. Nhưng Kinh thánh nói với chúng ta: “Thà ít của mà công bình, còn hơn giàu có mà gian ác.” Lời Đức Chúa Trời đúng thật. Khi đó lương thực khan hiếm; cuộc sống rất khó khăn đối với mỗi người. Nhưng gia đình Jian lúc nào cũng đủ ăn. Đức Chúa Trời luôn luôn nhân từ.

Vào một mùa xuân, ba tháng trước mùa gặt, gia đình Jian chỉ còn lại một nửa thúng khoai lang. Thông thường, chừng đó chỉ đủ cho hai ngày. Khi Jian đem một ít đi xay, thì thật kỳ lạ, lượng bột thu lại nhiều gấp không biết bao nhiêu lần. Cả gia đình Jian quì gối xuống và cảm tạ trong nước mắt.

Vào một ngày nọ, có một tín đồ trong làng đến nhà anh và nói “Anh ơi, gia đình tôi có sáu người, tôi chỉ còn lại có ba mươi cân thóc, chừng đó chỉ đủ cho nửa tháng là cùng. Nhưng chúng ta còn ba tháng nữa mới đến mùa gặt, anh có biết là ai có thể cho mượn tiền hay là lương thực không? Jian trả lời “Hãy cứ tin cậy Chúa, Ngài sẽ giúp đỡ anh!” Nên người tín đồ đã về nhà. Cứ năm ngày, anh lại lấy bảy cân rưỡi đi xay bột. Anh cứ làm như vậy trong ba tháng mà vẫn còn lại mười lăm cân!

Có một lần, Jian đến tỉnh 'M' để giảng tin lành ở đó. Trong một buổi giảng có một phụ nữ đã đến với anh, bồng đứa con trên tay. Nó đã chết. Jian đã đặt tay trên nó và kêu to: “Trong Danh Chúa Giê-xu tôi truyền cho em hãy dậy đi!” Ngay lập tức, đứa trẻ mở mắt và vùng dậy.

Vào một lúc khác, Jian hướng dẫn một buổi thánh lễ báp-tem ở một con sông trong tỉnh đó. Có một đứa trẻ bị câm từ lúc mới sinh ra, khi lên khỏi nước, nó đã la lên “Ha-lê-lugia! Ngợi khen Chúa!”

Có một lần, một anh em họ Zhang bị bắt. Chính quyền gọi một đám đông đến để xem anh bị tra tấn. Họ muốn làm điều đó để làm cho dân chúng sợ, đừng tin Chúa Giê-xu. Chúng treo ngược anh lên, chúng đánh đập và đấm đá anh. Anh kêu lên với Chúa “Chúa ơi, Phi-e-rơ đã bị treo ngược lên vì cớ Ngài! nhưng con không xứng đáng!”

Khi những anh chị em nhìn thấy điều đó, họ đã khóc nức nở. Ngay cả những người vô tín cũng khóc nữa. Dẫu sao, những kẻ bắt bớ các Cơ-đốc nhân đều gặp một kết cuộc thảm hại. Có một sĩ quan ở quân đội, rất căm ghét Cơ-đốc nhân. Có lần khi Jian bị bắt, hắn trói chặt anh và để anh ngoài hành lang, đạp và nện thình thịch lên lưng anh. Và hắn nói “Tao không đạp mày, mà tao đạp Chúa của mày; tao không trói mày, mà tao trói Chúa của mày. Để xem Chúa của mày có thể làm gì được tao!” Sau đó, hắn đưa Jian ra diễu hành ngoài đường phố để bị 'đấu tố'. Hắn vừa nói vừa đánh Jian “Kìa, Chúa của mày ở đâu? Tại sao Ngài lại không đến mà cứu mày? Tại sao Ngài không đến mà thi thố với tao?” Thình lình, có một con chó dữ từ trong ngõ chạy ra cắn vào chân hắn. Sau đó, vết thương bị nhiễm trùng và dạ dày hắn bị phình trướng lên. Trong vòng hai tháng, hắn chết một cái chết khủng khiếp.

Nhưng vẫn có một cuộc phấn hưng trong các làng lân cận. Chúa đã làm nhiều phép lạ dấu kỳ qua Jian và hàng ngày số những người được cứu được thêm lên.

Lửa tin lành cứ tiếp tục lan ra và lan ra...