Phải, 75 năm về trước, Cộng Sản Liên Sô đã bắt đầu với cuộc về nước của Lenin ngày 16-4-1917 (sau 9 năm vận động cách mạng ở hải ngoại từ năm 1908) cầm đầu đảng Bolsheviks (năm 1918 đã đổi tên thành Đảng Cộng Sản) chính thức đi vào giai đoạn Cách Mạng Tháng Mười, để lật đổ Nga hoàng là Czar Nicholas II vào ngày 7-11-1917.
Vâng, cũng 75 năm về trước, một biến cố khác đã xẩy ra thật là trùng hợp và hoàn toàn ăn khớp với sự xuất đầu lộ diện của cộng sản tại Nga Sô. Đó là việc Đức Mẹ hiện ra với ba thiếu nhi ở Fatima nước Bồ Đào Nha sáu lần, từ tháng 5 tới tháng 10 năm 1917, khoảng thời gian ngay giữa cuộc Cách Mạng Vô Sản của Lenin ở Nga Sô (từ tháng 4 đến tháng 11/1917).
Một điều lạ lùng khó có thể chối cãi, có liên hệ đến hai biến cố này, đó là, ngay ngày 13 tháng 7 năm 1917, Đức Mẹ đã tiết lộ cho ba thiếu nhi Fatima là em gái Giaxinta, 7 tuổi, em trai Phanxicô, anh ruột của Giaxinta, 9 tuổi, và em gái Lucia, chị họ của cả Phanxicô và Giaxinta, 10 tuổi, ba điều Bí Mật. Điều Bí Mật thứ nhất, theo nội dung, liên quan đến số phận đời đời của chung các linh hồn. Điều Bí Mật thứ hai, liên quan trực tiếp đến Nước Nga. Và, điều Bí Mật thứ ba, dù chưa được Đức Thánh Cha tiết lộ từ năm 1960, theo đa số các học giả về Sự Lạ Fatima, có liên quan đến riêng vận mệnh của Giáo Hội.
Về điều Bí Mật Fatima thứ hai, Đức Mẹ đã tỏ cho ba thiếu nhi Fatima biết như thế này:
“...Chiến tranh sẽ chấm dứt, nhưng nếu con người không thôi xúc phạm đến Thiên Chúa, một cuộc chiến khốc liệt hơn nữa sẽ bùng nổ vào thời Đức Piô XI. Khi các con thấy trong đêm tối xuất hiện một ánh sáng lạ, các con hãy biết rằng, đó là dấu hiệu rõ ràng Thiên Chúa tỏ cho chúng con thấy rằng Ngài sắp sửa trừng trị thế giới vì tội lỗi của họ, bằng chiến tranh, đói kém, bắt bớ Giáo Hội và Đức Thánh Cha. Để tránh khỏi điều này, Mẹ sẽ đến để xin hiến dâng Nước Nga cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội của Mẹ và xin rước lễ đền tạ vào các Ngày Thứ Bảy Đầu Tháng. Nếu yêu cầu của Mẹ được thực hiện, Nước Nga sẽ trở lại và sẽ có hòa bình; bằng không, Nước Nga sẽ reo giắc lầm lạc trên khắp thế giới, gây chiến tranh và bắt bớ Giáo Hội. Kẻ lành sẽ tử đạo, Đức Thánh Cha sẽ chịu nhiều đau khổ, một số quốc gia sẽ bị tiêu diệt. Cuối cùng, Trái
Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội của Mẹ sẽ thắng. Đức Thánh Cha sẽ dâng hiến Nước Nga cho Mẹ, Nước Nga sẽ trở lại, và thế giới sẽ được hưởng một thời gian hòa bình...”
Phần Bí Mật thứ hai trên đây được chị Lucia viết ra trong phần Hồi Niệm thứ ba và thứ bốn. Tất cả những gì chị Lucia viết ra, hoàn toàn vì vâng lời Giám Mục Silva cai quản địa phận Leiria-Fatima, gồm có 4 phần, được gọi là Những Hồi Niệm (Memoirs):
Phần Hồi Niệm thứ nhất, nội dung về Giaxinta, được chị bắt đầu viết vào tuần thứ hai của tháng 12 năm 1935 và hoàn tất vào ngày 25/12/1935, lễ Chúa Giáng Sinh. Phần Hồi Niệm thứ hai, nội dung về chính mình, chị
Lucia bắt đầu viết vào ngày 7-11-1937 và hoàn tất vào ngày 21-11-1937, lễ Đức Mẹ Dâng Mình Vào Đền
Thánh. Phần Hồi Niệm thứ ba, ngắn nhất, nội dung về Giaxinta (thêm cho đầy đủ) và về hai bí mật đầu, được chị viết ngay sau khi nhận được thơ của đức giám mục da Silva ngày 26-7-1941 và hoàn tất ngày 31-8-1941. Phần Hồi Niệm thứ bốn, dài nhất, nội dung về Phanxicô, về Giaxinta (nếu còn sót điều gì), về thị kiến Thiên Thần và Đức Mẹ hiện ra, được chị viết ra sau khi được lệnh đức giám mục da Silva ngày 7-10-1941 và hoàn tất phần nhất ngày 25-11-1941 và phần hai ngày 8-12-1941, lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội.
Như thế, Bí Mật Fatima thứ hai, liên quan trực tiếp đến Nước Nga, như một lời tiên tri về tất cả những việc làm của Nước Nga và cuộc trở lại của Nước Nga, đã được tỏ cho thế giới biết, qua giáo quyền địa phương là đức giám mục da Silva, khi chị Lucia viết ra và gửi cho ngài. Theo lịch sử diễn tiến từ ngày Đức Mẹ hiện ra ở Fatima và tiết lộ cho loài người, qua ba thiếu nhi Fatima, biết bí mật của Mẹ, cách riêng bí mật thứ hai, thì mọi sự đã xẩy ra hoàn toàn ứng nghiệm với lời tiên tri của Mẹ. Những chứng tích lịch sử đó là:
“Chiến tranh sẽ chấm dứt":
Đại chiến thứ nhất bắt đầu bùng nổ từ ngày 28/6/1914 khi Francis Ferdinand, ông hoàng của nước Áo bị ám sát tại thủ đô Sarajevo, và đã chấm dứt ngày 11/11/1918 khi nước Đức ký đầu hàng đồng minh. Vào thời điểm Đức Mẹ nói “chiến tranh sẽ chấm dứt” là ngày 13-7-1917, thì Hoa Kỳ đã chính thức tuyên chiến với Đức ngày 6-4-1917 và mới bắt đầu đổ quân xuống Pháp ngày 24-6- 1917 để tiếp tay với các nước Âu Châu dập tắt lực lượng đơn thân độc mã khiêu chiến và chiến đấu của Đức quốc.
“Một cuộc chiến khốc liệt hơn nữa sẽ bùng nổ vào thời Đức Giáo Hoàng Piô XI":
Đại Chiến thứ hai quả nhiên đã chính thức xẩy ra vào ngày 1-9-1939 khi quân Đức xâm chiếm Ba-Lan, để rồi kết thúc, tại Âu Châu ngày 7/5/1945 khi Đức đầu hàng đồng minh vô điều kiện ở Reims nước Pháp, và tại Á Châu ngày 2-9-1945 khi Nhật ký đầu hàng Mỹ trên chiến hạm U.S.S.Missouri tại vịnh Tokyo. Hậu quả của cuộc Đại Chiến thứ hai này đúng là “khốc liệt hơn” Đại Chiến thứ nhất. Ở chỗ, trong khi Đại Chiến thứ nhất mất có 10 triệu mạng người lính, trong đó Pháp chiếm 1 triệu 1/3, Đức và Nga mỗi nước mất 1 triệu 3/4, thì Đại Chiến thứ hai thủ tiêu mất 17 triệu mạng người tham chiến, trong đó, có 7 triệu rưỡi của Nga, 3 triệu rưỡi của Đức và 1 triệu 1/4 của Nhật, cộng với 20 triệu mạng thường dân của Nga và 10 triệu mạng thường dân của Tầu. Cuộc Đại Chiến thứ hai này cũng đúng là “bùng nổ vào thời Đức Giáo Hoàng Piô XI”.
Đúng vậy, trước khi Đức Thánh Cha Piô XI băng hà ngày 10-2-1939, Đại Chiến thứ hai đã bắt đầu xẩy ra, trước tiên là Ý xâm chiếm Ethiopia năm 1935 và hoàn toàn khống chế nước này vào tháng 5/1936, sau đó là Nhật tấn công Trung Hoa vào năm 1937 và chiếm gần hết phần đất phía đông của Trung Hoa vào cuối năm 1938, sau cùng là Đức tiến vào nước Áo tháng 3 năm 1938 và sát nhập nước này với Đức quốc. Theo chị Lucia, “việc xâm chiếm Áo quốc là khơi mào cho chiến tranh. Khi Hoà Ước Munich được ký kết (ngày 29-30/9/1938, giữa Chamberlain, Hitler, Mussolini và Daladier công nhận Sudetenland là phần đất biên giới ở phía bắc của nước Czechoslovakia thuộc về Nazi Đức Quốc Xã), các dì (dòng thánh Đôrôthêô của chị) vui mừng vì họ nghĩ là hòa bình đã được vãn hồi. Tiếc thay, tôi lại biết rõ hơn các dì ấy nữa” (MOCC:XIV)
“Trong đêm tối xuất hiện một ánh sáng lạ...dấu hiệu Thiên Chúa sắp trừng phạt thế giới":
Tờ Le Nouvelliste de Lyons, ra ngày 26/1/1938 ở Pháp, đã viết về đêm 25 rạng 26/1/1938 theo nhận xét của ông Jean Dufay, giám đốc quan sát viện Saint-Genis-Laval, kiêm giảng sư khoa học Lyon, như sau:
“Quang cảnh mà chúng ta vừa chứng kiến rất lạ lùng. Đó là một vầng ánh sáng Bắc phương ở một cao độ khá, một hiện tượng rất hiếm đối với vĩ tuyến của chúng ta, hiếm có vào lúc này vì những luồng dưỡng khí và phát xạ đạm khí của một tổng hợp quang phổ kỳ diệu. Vầng ánh sáng bắc phương này luôn luôn liên hệ đến một vùng tròn mầu sắc vào một lúc nào đó băng ngang qua kinh tuyến chính của mặt trời. Những hiện tượng này xuất hiện trên trời bình thường xẩy ra khoảng 48 tiếng đồng hồ sau khi vùng tròn mầu sắc này qua đi. Mà, theo sự khảo sát của chúng ta về mặt trời mấy hôm vừa qua cho phép chúng ta nói được rằng đã không có một bóng mờ nào băng ngang qua thái dương. Điều đó càng chứng tỏ về sự lạ lùng của hiện tượng này vì thiếu nguyên nhân gây ra nó” (TWTAFII:705).
Theo chị Lucia, “vầng ánh sáng bắc phương” này chính là “dấu hiệu Thiên Chúa sắp trừng phạt thế giới” như
Đức Mẹ báo trước. Cuộc xâm chiếm của Đức đối với Áo quốc vào tháng 3 ngay sau đó không phải là khai mào cho việc Thiên Chúa trừng phạt thế giới “vì tội lỗi của họ” hay sao?
“Mẹ sẽ đến để xin dâng hiến Nước Nga cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội của Mẹ và xin rước lễ đền tạ vào các Thứ Bảy Đầu Tháng":
Mẹ Maria đã giữ đúng lời hứa này khi hiện ra với chị Lucia hai lần. Lần thứ nhất vào ngày 10/12/1925 tại Pontevedra nước Tây ban Nha, trong một tu viện của dòng thánh Đôrôthêô mà chị bấy giờ là một tập sinh,
Đức Mẹ hiện ra với chị cùng với Chúa Hài Nhi và nói với chị những lời sau đây:
“Hỡi con gái của Mẹ, hãy nhìn vào Trái Tim của Mẹ bị gai nhọn quấn quanh do các con người vô ơn bội bạc gây ra mỗi khi họ phạm thượng và vong ân. Ít là phần con hãy cố gắng ủi an Mẹ và này Mẹ hứa sẽ phù hộ trong giờ lâm chung bằng những ơn cần thiết cho những ai Năm Ngày Thứ Bảy Đầu Tháng liền xưng tội, rước lễ, lần năm chục kinh Mân Côi, và dùng mười năm phút suy về 15 mầu nhiệm Mân Côi, với ý đền tạ Mẹ” (FILOW:195).
Lần thứ hai vào ngày 13/6/1929 tại Tuy nước Tây Ban Nha, trong nhà nguyện dòng của chị, Đức Mẹ tay cầm Trái Tim hiện ra với chị ở thế đứng bên phải Thánh Giá bằng ánh sáng có những giọt máu từ mặt và cạnh sườn của Chúa Kitô chịu đóng đanh nhỏ xuống bánh thánh và chén thánh ở bên dưới cạnh sườn của Chúa, và Đức Mẹ nói với chị những lời sau đây:
“Đã đến lúc Thiên Chúa muốn xin Đức Thánh Cha hợp cùng với tất cả các giám mục trên thế giới để hiến dâng nước Nga cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ, Ngài hứa cứu nước Nga” (FILOW:200)
“Nếu yêu cầu của Mẹ được thực hiện, Nước Nga sẽ trở lại và sẽ có hòa bình; bằng không Nước Nga sẽ gieo rắc lầm lạc trên khắp thế giới, gây chiến tranh và bắt bớ Giáo Hội. Kẻ lành sẽ tử đạo, Đức Thánh Cha sẽ chịu nhiều đau khổ, một số quốc gia sẽ bị tiêu diệt":
Theo Bí Mật thứ hai mà Đức Mẹ tỏ ra cho ba Thiếu Nhi Fatima vào ngày 13-7-1917 này thì Đức Mẹ chỉ “yêu cầu”hai điều. Một là “”dâng Nước Nga cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội của Mẹ”, hai là “rước lễ đền tạ các Ngày Thứ Bảy Đầu Tháng”. Tuy nhiên, vào lần hiện ra với chị Lucia tại Tuy ngày 13/6/1929, theo lời của Mẹ, thì chỉ còn lại một “yêu Cầu” duy nhất. Đó là nếu Đức Thánh Cha hợp với toàn thể các đức giám mục trên thế giới hiến dâng Nước Nga cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội của Mẹ thì Nước Nga sẽ được cứu.
Tất cả diễn tiến việc thực hiện điều “yêu cầu” duy nhất này của Đức Mẹ, cũng là diễn tiến việc “Nước Nga sẽ được cứu" ở trong chương kế tiếp, "Đáp Ứng Yêu Cầu".
Pages
24/9/09
HIỆN TƯỢNG NƯỚC NGA
Nếu hiện tượng Mặt Trời nhẩy múa tại Fatima ngày 13-10-1917, theo Đức Mẹ nói với ba Thiếu Nhi Fatima, Giaxinta, Phanxicô và Lucia bấy giờ, là để cho mọi người tin (FILOW:161,166,168), thì, hiện tượng Nước Nga hoàn toàn từ bỏ chủ thuyết và chế độ vào đúng ngày lễ Chúa Giáng Sinh 25-12-1991 cũng chính là một việc Đức Mẹ làm để cho mọi người tin.
Thật ra, so sánh và kết luận như trên có thể sẽ đụng chạm đến một số người chủ trương rằng, việc Nước Nga từ bỏ chủ nghĩa và đế quốc cộng sản hoàn toàn là một việc tự nhiên và do tự nhiên. Về phương diện tích cực, Nước Nga từ bỏ chủ nghĩa và chế độ cộng sản đó là một sự thắng thế bất chiến tự nhiên thành của chủ nghĩa tư bản là chủ nghĩa bao giờ cũng hợp với quyền lợi và nhân vị của con người trong xã hội. Về phương diện tiêu cực, đó là một hậu quả cùng tất biến không thể nào tránh được, tạo nên do sự lỗi thời bẩm sinh và tận cốt lõi của chủ nghĩa cộng sản Mát-xít, cũng như do sự thất sách ngay từ ban đầu của chế độ cộng sản Lênít và Stanít.
Chủ trương cho rằng Cộng Sản không sớm thì muộn, chắc chắn thế nào cũng sụp đổ như thế cũng không phải là hoàn toàn vô lý. Chính Đức Thánh Cha Piô XI, như một vị tiên tri, trong thông điệp về Divini Redemptoris ban bố ngày 19-3-1937 đã quả quyết rằng: “Cộng sản không thể nào và sẽ không bao giờ đạt được mục tiêu của mình, ngay cả trong lãnh vực thuần túy kinh tế” (AC,23). Tại sao? Theo Đức Thánh Cha, là vì “tự bản chất cộng sản phản lại tôn giáo” (AC,22), và vì “cộng sản sai lầm tự căn bản” (AC,58), nên sẽ phải chịu quả báo bởi “luật tự nhiên và Tác Giả của nó” (AC,23), thế thôi.
Tuy nhiên, chủ trương rằng hiện tượng Nước Nga hoàn toàn từ bỏ chủ nghĩa và chế độ cộng sản là một sự thắng thế tất yếu của chủ nghĩa tư bản, một chủ nghĩa bao giờ cũng hợp với quyền lợi và nhân vị của con người trong xã hội, cũng chẳng chủ trương rằng, chỉ có chủ nghĩa tư bản mới làm cho con người được ấm no và hạnh phúc thôi. Thế mà, tại sao, như Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II nhận xét trong thông điệp Bách Chu Niên (Centesimus Annus): “Chính sách Mát-Xít đã thất bại, nhưng trên thế giới vẫn còn những tình trạng tẩy chay và lạm dụng nhau, nhất là ở khối Thế Giới Thứ Ba, cũng như tình trạng lạnh tình với nhau, nhất là ở các nước tân tiến” (CA,42). Phải chăng, là vì, cũng theo thông điệp này, “tư bản” ở đây không phải “là một đường lối kinh tế biết tôn trọng vai trò căn bản và tích cực về thương mại, thị trường, tư bản, và trách nhiệm hiệu quả đối với những phương tiện sản xuất, cũng như đối với tự do sáng kiến trong ngành kinh tế” (CA 42)
Vả lại, chủ trương rằng chủ nghĩa cộng sản tự bẩm sinh lỗi thời tận cốt lõi và chế độ cộng sản thất sách ngay từ ban đầu nên tới ngày tới giờ tự nhiên là “cùng tất biến”, cũng khó lòng mà giải đáp được thực trạng hiện nay trong thế giới cộng sản.
Đó là, trong khi Cuba và Việt Nam là hai nước cộng sản chư hầu, ăn nhờ sống dựa vào đại quan thày của mình là Nga Sô và các nước anh chị cộng sản ở Đông Âu vẫn còn ngang nhiên tồn tại cho đến bây giờ, lúc những giòng chữ này đang được viết ra, thì chính quan thày Nga Sô và các nước cộng sản anh chị ở Đông Âu đã đồng loạt tự động giải thể và biến thể từ năm 1989.Những diễn tiến về sự kiện sụp đổ chớp nhoáng đầy ngoạn mục của chế độ cộng sản ở Âu Châu vào cuối năm 1989 đã xẩy ra hoàn toàn ngoài mọi dự tưởng của những chính trị gia lỗi lạc nhất thế giới. Không phải hay sao, một chế độ độc tài đảng trị và sắt máu như cộng sản, hầu như, về phương diện loài người, không gì có thể tiêu diệt được nó và chống lại được sự bành trướng của nó. Thế mà, ngay trong lúc mà cả loài người đang lo sợ vì nó đang trở nên một hiểm họa vô cùng nguy hiểm đến vận mệnh cả loài người ở thế kỷ 20 này, thì tự nó lại quay ra chết “bất đắc kỳ tử”.
Những diễn tiến về sự kiện sụp đổ chớp nhoáng đầy ngoạn mục của chế độ cộng sản ở Âu Châu vào cuối năm 1989 đã xẩy ra hoàn toàn ngoài mọi dự tưởng của những chính trị gia lỗi lạc nhất thế giới. Không phải hay sao, một chế độ độc tài đảng trị và sắt máu như cộng sản, hầu như, về phương diện loài người, không gì có thể tiêu diệt được nó và chống lại được sự bành trướng của nó. Thế mà, ngay trong lúc mà cả loài người đang lo sợ vì nó đang trở nên một hiểm họa vô cùng nguy hiểm đến vận mệnh cả loài người ở thế kỷ 20 này, thì tự nó lại quay ra chết bất đắc kỳ tử.
Thật ra, đã có ba điều lạ lùng xẩy ra, đúng hơn, ba yếu tố định đoạt trong biến cố qua đời của chế độ cộng sản ở Âu Châu này. Thứ nhất, năm 1978, vị Giáo Hoàng Rôma (Gioan-Phaolô II) được bầu lên xuất thân từ một nước cộng sản. Thứ hai, năm 1980, tổ chức Công Đoàn Liên Đới (Solidarity) được Lech Walesa hình thành ở Ba Lan. Thứ ba, năm 1985, chính sách Cởi Mở (Glasnost) và Cải Tổ (Perestroika)được tân lãnh tụ Mikhail Gorbachev phát động ở Nga Sô.
Đức Giáo Hoàng Gioan-Phaolô là yếu tố thứ nhất trong ba yếu tố định đoạt cho hiện tượng khai tử của chế độ cộng sản Âu Châu.
Biến cố này bắt đầu từ khi Ngài về thăm quê hương của Ngài vào ngày 2-10/6/1979. Việc Ngài được phép chính quyền cộng sản Ba- Lan cho về thăm quê hương cũng không phải là chuyện thường. Đầu tiên chính quyền Ba Lan từ chối lời xin phép của Ngài. Sau đó, chính quyền đã tự nhượng bộ vào ngày 7/5/1979, ngày kết thúc bảy ngày và bảy đêm liên tục lần chuỗi trước Mình Thánh Chúa được tổ chức ở Đền Đức Mẹ Czestochowa để cầu nguyện cho việc được phép về thăm quê hương của Đức Giáo Hoàng. Để rồi, với ảnh hưởng của Ngài, Công Đoàn Liên Đới đã được hình thành.
Timothy Garton Ash, một ký giả người Anh, năm 1990 đã viết: “Chính tháng Sáu năm 1979 là khởi điểm cho cuộc kết liễu của riêng lịch sử Đông Âu... Tôi tin rằng chuyến công du đầu tiên về Ba-Lan của Đức Thánh Cha là chốt điểm của nó. Chỉ hơn một năm sau cuộc viếng thăm của Đức Thánh Cha là Công Đoàn Liên Đới ra đời, nếu không có cuộc viếng thăm này của Đức Thánh Cha, chưa chắc đã có Công Đoàn Liên Đới. Gương của Công Đoàn Liên Đới là một khai triển tân kỳ. Nó đã đi tiên phong như là một hình thái chính trị mới mẻ ở Đông Âu (và không phải chỉ mới mẻ ở đó mà thôi): chính trị tự tổ hợp nhằm điều giải cho việc chuyển nhượng của cộng sản” (CI:57).
Mikhail Gorbachev, nguyên lãnh tụ Cộng Sản Liên Sô, cho rằng Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II đã giữ một vai trò rất quan trọng trong việc Cộng Sản Đông Âu sụp đổ. Trong một bài báo được nhiều tờ báo nổi tiếng trên thế giới đăng tải vào tháng 3/1992, Gorbachev đã viết: “Những biến cố ở Đông Âu không thể nào xẩy ra nếu không có vai trò quan trọng mà Ngài (ĐTC Gioan-Phaolô II) tự biết phải đóng vai trò như thế nào trong hiện tình thế giới... Tôi vẫn tin ở tầm mức quan trọng nơi những hành động của Đức Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II trong những năm ấy” (FFM 4-6/92:21). Công Đoàn Liên Đới là yếu tố thứ hai định đoạt cho hiện tượng khai tử của chế độ cộng sản Âu Châu.
Sự lạ thứ nhất là việc chính quyền cộng sản Ba-Lan vào năm 1980 đã công nhận Công Đoàn Liên Đới, một tổ chức bao gồm chừng 50 nghiệp đoàn của người Ba-Lan, do Lech Walesa lãnh đạo.
Sự lạ thứ hai là, dù bị chính quyền đàn áp vào năm 1981 và dù bị chính quyền chính thức giải tán vào tháng 10 năm 1982, Công Đoàn Liên Đới vẫn tồn tại cho đến ngày được tái công nhận là ngày 17- 4-1989. Vẫn biết, theo dư luận báo chí, Công Đoàn Liên Đới nhận được viện trợ ngầm của Mỹ, có thể nhờ đó mà tồn tại, tuy nhiên, cũng theo dư luận báo chí, sở dĩ cuộc viện trợ của Mỹ đến được tay Công Đoàn Liên Đới là vì chính phủ Cộng Sản Balan bấy giờ cho biết dù "chúng tôi không hài lòng tí nào về điều này ... Trong một vài trường hợp chúng tôi đã mhắm mắt làm ngơ, vì sợ lộ tẩy chân tướng của các tay trong do chúng tôi gài vào Công Đoàn Liên Đới này" (30 Days 3/92:17). Với các tay trong của chính quyền cộng sản như thế mà Công Đoàn Liên Đới vẫn tồn tại. Đó mới là sự lạ, và sự lạ là ở chỗ đó.
Sự lạ thứ ba là Tadeusz Mazowiecki, cố vấn của Công Đoàn Liên Đới, được bổ nhiệm làm thủ tướng vào ngày 19-8-1989, là một biến cố chưa từng có trong thế giới cộng sản, làm náo động tận nền móng tất cả chủ nghĩa cộng sản hiện đại, mở màn cho biến động Đông Âu.
Sự lạ thứ bốn, cũng là sự lạ chính yếu, đó là sự thành công một cách quá ư tốt đẹp của Công Đoàn Liên Đới, một thành quả gặt hái được, như Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II viết trong thông điệp Bách Niên (Centesimus Annus) của Ngài, nhờ “chỉ sử dụng khí giới chân thật và công chính... bởi cuộc tranh đấu bất bạo động của những con người mà, trong khi nhất định không chịu nhượng bộ trước những thế lực, liên lỉ tìm kiếm những đường lối hữu hiệu để minh chứng cho sự thật” (CA:23).
Chính Lech Walesa, đương kim tổng thống Ba-Lan, tại trụ sở Liên Hiệp Quốc ở Nữu Ước, ngày 14/10/1991, dịp chia sẻ về chủ đề và những nguyên tắc trong thông điệp Bách Niên(Centesimus Annus) của Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II, đã phát biểu và diễn thuật về “cuộc tranh đấu bất bạo động”, “cuộc chống đối thuận hòa”, “cuộc chống đối làm sụp đổ chủ nghĩa Mát-Xít” như sau: “Hãy nhớ rằng tất cả là mười triệu người tích cực tham dự. Sự bất mãn đã bộc phát ở một mức độ ngoài dự liệu. Sau mười tám tháng chống đối chính quyền cộng sản mà không cần sô xát như tấn công ngục Bastilles, không cần dựng nên các đoạn đầu đài, không một mảnh kính bị đập bể, chúng tôi đã chiến thắng” (CI:57).
Chính sách Cởi Mở và Cải Tổ của Mikhail Gorbachev là yếu tố thứ ba định đoạt cho hiện tượng khai tử của chế độ cộng sản Âu Châu.
Đối nội, Gorbachev chủ trương hai chính sách: Cởi Mở về tư tưởng và phát biểu và Cải Tổ về chính trị và kinh tế. Với tinh thần và đường lối này, đối ngoại, Gorbachev cũng chủ trương Cải Tổ lại tất cả, như rút quân khỏi Afghanistan, cắt giảm vũ trang nguyên tử và lực lượng quân sự, khuyến khích khối cộng sản Đông Âu cải tổ chính trị cũng như kinh tế và hứa không can thiệp vào nội bộ cải tổ của mỗi địa phương. Kết quả là những cuộc bùng nổ thực sự đã xẩy ra ở các nước cộng sản Đông Âu.
Khởi đầu là Ba-Lan, ngày 4 và 18 tháng 6 năm 1989, đã tổ chức bầu cử tự do, lần đầu tiên kể từ năm 1947.
Thứ đến là Hung Gia Lợi, ngày 10-9-1989, chính quyền cộng sản đã mở cửa biên giới cho dân Đông Đức từ ngả nước Áo trốn sang Tây Đức, và ngày 18-10-1989, đã chấp nhận hình thức bầu cử đa đảng.
Rồi Tây Đức, ngày 18-10-1989, đã truất phế lãnh tụ cộng sản Erich Honecker, và ngày 9-11-1989 đã mở cửa biên giới, phá đổ bức tường Bá-Linh, để cho dân tha hồ tuốn sang Tây Đức; nhất là, vào ngày 7-12-1989, đảng cộng sản Tây Đức đã tự giải thể và kêu gọi tổ chức bầu cử đa đảng vào tháng 5/1990, để rồi, kết thúc với một nước Đức thống nhất vào ngày 3/10/1990.
Rồi Bulgaria,ngày 10-11-1989, quyền bính trong tay nhà độc tài Todor Zhivkov sau 35 năm đã bị mất vào tay một nhà cải cách.
Rồi Czechoslovakia, ngày 10-12-1989, một chính quyền vừa cộng sản lẫn không cộng sản (đa số) đượcthành hình, dọn đường cho việc bầu cử tự do.
Rồi Romania, ngày 22-12-1989, lãnh tụ Nicolae Ceausescu đã hoàn toàn bất lực trong việc truyền khiến quân đội và bị tử hình ngày 25-12-1989 vì bị kết tội là kẻ thù của dân tộc.
Sau hết, ngay tại Liên Bang Sô Viết, tháng 3/1990, một cuộc bầu cử tự do đã được thực hiện và Gorbachev đã đắc cử tổng thống Liên Bang Sô Viết; ngày 20 và 21/8/1991, nhân cuộc nổi dậy của đảng cộng sản hôm 19-21/8/1991, ba nước cộng hòa Baltic là Estonia, Latvia và Lithunia đã tái tuyên bố độc lập (sau lần đòi độc lập thứ nhất vào tháng 3/1990), kéo theo sự thành lập của Khối Thịnh Vượng Chung vào ngày 21/12/1991 cho 11 trong 12 (trừ Georgia) nước thuôc Cộng Hòa Sô Viết.
Phải chăng, sự sụp đổ của Liên Bang Sô Viết và khối Cộng Sản Đông Âu chỉ là khổ nhục kế của Cộng Sản Nga So<131>? Chính Mikhail Gorbachev, vào tháng 11 năm 1987, đã nói những lời sau đây với các nhân vật trong ủy ban nghiên cứu chính sách của đảng Cộng Sản: “Hỡi các đồng chí, đừng lo về những điều mà tất cả các bạn nghe được có liên quan đến chính sách cởi mở và cải cách vào những năm tới. Những chính sách này chỉ là một nhu cầu đối ngoại mà thôi. Ngoài mục đích đánh bóng, sẽ không có một thay đổi hệ trọng đối nội nào cả. Mục đích của chúng ta là giải giới Hoa Kỳ và làm cho họ tưởng bở. Chúng ta muốn đạt được 3 điều là: thứ nhất, chúng ta muốn lực lượng thỏa hiệp của Hoa Kỳ rút khỏi Âu Châu; thứ hai, chúng ta muốn khí giới nguyên tử của Hoa Kỳ rút khỏi Âu Châu; thứ ba, chúng ta muốn Hoa Kỳ bỏ tiến hành Lực Lượng Chiến Lược Phòng Thủ” (CT: Spring 92).
Những âm mưu thật là thâm độc này của Cộng Sản không phải là không thể có và không thể xẩy ra. Tuy nhiên, nếu quả thật như vậy thì họ đã đi một nước cờ quá liều, đến nỗi, thực tế đã xẩy ra hoàn toàn ngoài tầm kiểm soát và dự tính của họ. Phải chăng "Họ đã đào hố trước mặt tôi, nhưng họ lại rơi ngay xuống hố họ đào" (TV 57:7).
Quả thât đường lối Chúa thật khôn dò. Ngài không hề phạm đến tự do mà Ngài đã ban cho con người, thế mà con người vẫn không thể nào đi lệch khỏi những gì Ngài đã định liệu từ trước theo Thượng Trí vô cùng khôn ngoan của Ngài. Thiên Chúa là chúa tể muôn loài. Chính Ngài, chứ không phải Cesar, không phải Napoleon, không phải Hítler, không phải Lenin, không phải ai hết... điều hành lịch sử loài người. Do đó, tât cả những gì Ngài đã định liệu, chắc chắc sẽ xẩy ra khi tới thời điểm của nó.
Phải, thời điểm tận số của cộng sản tại Liên Bang Sô Viết sau 74 năm làm kinh hoàng chung thế giới và đọa đầy riêng nhân dân Nga, thât sự đã xẩy ra khi tổng thống Liên Bang Sô Viết Gorbachev từ chức vào chính ngày lễ kỷ niệm Thiên Chúa giáng sinh 1991, ngày mà các thần trời, hiện thân của hòa bình, như Thiên Thần Hòa Bình, vị hiện ra với 3 Thiếu Nhi Fatima năm 1916, đã từ trời cao xuống giữa đêm đông âm u rét buốt của trần gian năm xưa ấy, để cùng nhau hợp xướng tung hô:
"Vinh Danh Thiên Chúa trên trời,
Bình an dưới thế cho người Chúa thương" (Lc 2:14)
Thật ra, so sánh và kết luận như trên có thể sẽ đụng chạm đến một số người chủ trương rằng, việc Nước Nga từ bỏ chủ nghĩa và đế quốc cộng sản hoàn toàn là một việc tự nhiên và do tự nhiên. Về phương diện tích cực, Nước Nga từ bỏ chủ nghĩa và chế độ cộng sản đó là một sự thắng thế bất chiến tự nhiên thành của chủ nghĩa tư bản là chủ nghĩa bao giờ cũng hợp với quyền lợi và nhân vị của con người trong xã hội. Về phương diện tiêu cực, đó là một hậu quả cùng tất biến không thể nào tránh được, tạo nên do sự lỗi thời bẩm sinh và tận cốt lõi của chủ nghĩa cộng sản Mát-xít, cũng như do sự thất sách ngay từ ban đầu của chế độ cộng sản Lênít và Stanít.
Chủ trương cho rằng Cộng Sản không sớm thì muộn, chắc chắn thế nào cũng sụp đổ như thế cũng không phải là hoàn toàn vô lý. Chính Đức Thánh Cha Piô XI, như một vị tiên tri, trong thông điệp về Divini Redemptoris ban bố ngày 19-3-1937 đã quả quyết rằng: “Cộng sản không thể nào và sẽ không bao giờ đạt được mục tiêu của mình, ngay cả trong lãnh vực thuần túy kinh tế” (AC,23). Tại sao? Theo Đức Thánh Cha, là vì “tự bản chất cộng sản phản lại tôn giáo” (AC,22), và vì “cộng sản sai lầm tự căn bản” (AC,58), nên sẽ phải chịu quả báo bởi “luật tự nhiên và Tác Giả của nó” (AC,23), thế thôi.
Tuy nhiên, chủ trương rằng hiện tượng Nước Nga hoàn toàn từ bỏ chủ nghĩa và chế độ cộng sản là một sự thắng thế tất yếu của chủ nghĩa tư bản, một chủ nghĩa bao giờ cũng hợp với quyền lợi và nhân vị của con người trong xã hội, cũng chẳng chủ trương rằng, chỉ có chủ nghĩa tư bản mới làm cho con người được ấm no và hạnh phúc thôi. Thế mà, tại sao, như Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II nhận xét trong thông điệp Bách Chu Niên (Centesimus Annus): “Chính sách Mát-Xít đã thất bại, nhưng trên thế giới vẫn còn những tình trạng tẩy chay và lạm dụng nhau, nhất là ở khối Thế Giới Thứ Ba, cũng như tình trạng lạnh tình với nhau, nhất là ở các nước tân tiến” (CA,42). Phải chăng, là vì, cũng theo thông điệp này, “tư bản” ở đây không phải “là một đường lối kinh tế biết tôn trọng vai trò căn bản và tích cực về thương mại, thị trường, tư bản, và trách nhiệm hiệu quả đối với những phương tiện sản xuất, cũng như đối với tự do sáng kiến trong ngành kinh tế” (CA 42)
Vả lại, chủ trương rằng chủ nghĩa cộng sản tự bẩm sinh lỗi thời tận cốt lõi và chế độ cộng sản thất sách ngay từ ban đầu nên tới ngày tới giờ tự nhiên là “cùng tất biến”, cũng khó lòng mà giải đáp được thực trạng hiện nay trong thế giới cộng sản.
Đó là, trong khi Cuba và Việt Nam là hai nước cộng sản chư hầu, ăn nhờ sống dựa vào đại quan thày của mình là Nga Sô và các nước anh chị cộng sản ở Đông Âu vẫn còn ngang nhiên tồn tại cho đến bây giờ, lúc những giòng chữ này đang được viết ra, thì chính quan thày Nga Sô và các nước cộng sản anh chị ở Đông Âu đã đồng loạt tự động giải thể và biến thể từ năm 1989.Những diễn tiến về sự kiện sụp đổ chớp nhoáng đầy ngoạn mục của chế độ cộng sản ở Âu Châu vào cuối năm 1989 đã xẩy ra hoàn toàn ngoài mọi dự tưởng của những chính trị gia lỗi lạc nhất thế giới. Không phải hay sao, một chế độ độc tài đảng trị và sắt máu như cộng sản, hầu như, về phương diện loài người, không gì có thể tiêu diệt được nó và chống lại được sự bành trướng của nó. Thế mà, ngay trong lúc mà cả loài người đang lo sợ vì nó đang trở nên một hiểm họa vô cùng nguy hiểm đến vận mệnh cả loài người ở thế kỷ 20 này, thì tự nó lại quay ra chết “bất đắc kỳ tử”.
Những diễn tiến về sự kiện sụp đổ chớp nhoáng đầy ngoạn mục của chế độ cộng sản ở Âu Châu vào cuối năm 1989 đã xẩy ra hoàn toàn ngoài mọi dự tưởng của những chính trị gia lỗi lạc nhất thế giới. Không phải hay sao, một chế độ độc tài đảng trị và sắt máu như cộng sản, hầu như, về phương diện loài người, không gì có thể tiêu diệt được nó và chống lại được sự bành trướng của nó. Thế mà, ngay trong lúc mà cả loài người đang lo sợ vì nó đang trở nên một hiểm họa vô cùng nguy hiểm đến vận mệnh cả loài người ở thế kỷ 20 này, thì tự nó lại quay ra chết bất đắc kỳ tử.
Thật ra, đã có ba điều lạ lùng xẩy ra, đúng hơn, ba yếu tố định đoạt trong biến cố qua đời của chế độ cộng sản ở Âu Châu này. Thứ nhất, năm 1978, vị Giáo Hoàng Rôma (Gioan-Phaolô II) được bầu lên xuất thân từ một nước cộng sản. Thứ hai, năm 1980, tổ chức Công Đoàn Liên Đới (Solidarity) được Lech Walesa hình thành ở Ba Lan. Thứ ba, năm 1985, chính sách Cởi Mở (Glasnost) và Cải Tổ (Perestroika)được tân lãnh tụ Mikhail Gorbachev phát động ở Nga Sô.
Đức Giáo Hoàng Gioan-Phaolô là yếu tố thứ nhất trong ba yếu tố định đoạt cho hiện tượng khai tử của chế độ cộng sản Âu Châu.
Biến cố này bắt đầu từ khi Ngài về thăm quê hương của Ngài vào ngày 2-10/6/1979. Việc Ngài được phép chính quyền cộng sản Ba- Lan cho về thăm quê hương cũng không phải là chuyện thường. Đầu tiên chính quyền Ba Lan từ chối lời xin phép của Ngài. Sau đó, chính quyền đã tự nhượng bộ vào ngày 7/5/1979, ngày kết thúc bảy ngày và bảy đêm liên tục lần chuỗi trước Mình Thánh Chúa được tổ chức ở Đền Đức Mẹ Czestochowa để cầu nguyện cho việc được phép về thăm quê hương của Đức Giáo Hoàng. Để rồi, với ảnh hưởng của Ngài, Công Đoàn Liên Đới đã được hình thành.
Timothy Garton Ash, một ký giả người Anh, năm 1990 đã viết: “Chính tháng Sáu năm 1979 là khởi điểm cho cuộc kết liễu của riêng lịch sử Đông Âu... Tôi tin rằng chuyến công du đầu tiên về Ba-Lan của Đức Thánh Cha là chốt điểm của nó. Chỉ hơn một năm sau cuộc viếng thăm của Đức Thánh Cha là Công Đoàn Liên Đới ra đời, nếu không có cuộc viếng thăm này của Đức Thánh Cha, chưa chắc đã có Công Đoàn Liên Đới. Gương của Công Đoàn Liên Đới là một khai triển tân kỳ. Nó đã đi tiên phong như là một hình thái chính trị mới mẻ ở Đông Âu (và không phải chỉ mới mẻ ở đó mà thôi): chính trị tự tổ hợp nhằm điều giải cho việc chuyển nhượng của cộng sản” (CI:57).
Mikhail Gorbachev, nguyên lãnh tụ Cộng Sản Liên Sô, cho rằng Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II đã giữ một vai trò rất quan trọng trong việc Cộng Sản Đông Âu sụp đổ. Trong một bài báo được nhiều tờ báo nổi tiếng trên thế giới đăng tải vào tháng 3/1992, Gorbachev đã viết: “Những biến cố ở Đông Âu không thể nào xẩy ra nếu không có vai trò quan trọng mà Ngài (ĐTC Gioan-Phaolô II) tự biết phải đóng vai trò như thế nào trong hiện tình thế giới... Tôi vẫn tin ở tầm mức quan trọng nơi những hành động của Đức Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II trong những năm ấy” (FFM 4-6/92:21). Công Đoàn Liên Đới là yếu tố thứ hai định đoạt cho hiện tượng khai tử của chế độ cộng sản Âu Châu.
Sự lạ thứ nhất là việc chính quyền cộng sản Ba-Lan vào năm 1980 đã công nhận Công Đoàn Liên Đới, một tổ chức bao gồm chừng 50 nghiệp đoàn của người Ba-Lan, do Lech Walesa lãnh đạo.
Sự lạ thứ hai là, dù bị chính quyền đàn áp vào năm 1981 và dù bị chính quyền chính thức giải tán vào tháng 10 năm 1982, Công Đoàn Liên Đới vẫn tồn tại cho đến ngày được tái công nhận là ngày 17- 4-1989. Vẫn biết, theo dư luận báo chí, Công Đoàn Liên Đới nhận được viện trợ ngầm của Mỹ, có thể nhờ đó mà tồn tại, tuy nhiên, cũng theo dư luận báo chí, sở dĩ cuộc viện trợ của Mỹ đến được tay Công Đoàn Liên Đới là vì chính phủ Cộng Sản Balan bấy giờ cho biết dù "chúng tôi không hài lòng tí nào về điều này ... Trong một vài trường hợp chúng tôi đã mhắm mắt làm ngơ, vì sợ lộ tẩy chân tướng của các tay trong do chúng tôi gài vào Công Đoàn Liên Đới này" (30 Days 3/92:17). Với các tay trong của chính quyền cộng sản như thế mà Công Đoàn Liên Đới vẫn tồn tại. Đó mới là sự lạ, và sự lạ là ở chỗ đó.
Sự lạ thứ ba là Tadeusz Mazowiecki, cố vấn của Công Đoàn Liên Đới, được bổ nhiệm làm thủ tướng vào ngày 19-8-1989, là một biến cố chưa từng có trong thế giới cộng sản, làm náo động tận nền móng tất cả chủ nghĩa cộng sản hiện đại, mở màn cho biến động Đông Âu.
Sự lạ thứ bốn, cũng là sự lạ chính yếu, đó là sự thành công một cách quá ư tốt đẹp của Công Đoàn Liên Đới, một thành quả gặt hái được, như Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II viết trong thông điệp Bách Niên (Centesimus Annus) của Ngài, nhờ “chỉ sử dụng khí giới chân thật và công chính... bởi cuộc tranh đấu bất bạo động của những con người mà, trong khi nhất định không chịu nhượng bộ trước những thế lực, liên lỉ tìm kiếm những đường lối hữu hiệu để minh chứng cho sự thật” (CA:23).
Chính Lech Walesa, đương kim tổng thống Ba-Lan, tại trụ sở Liên Hiệp Quốc ở Nữu Ước, ngày 14/10/1991, dịp chia sẻ về chủ đề và những nguyên tắc trong thông điệp Bách Niên(Centesimus Annus) của Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II, đã phát biểu và diễn thuật về “cuộc tranh đấu bất bạo động”, “cuộc chống đối thuận hòa”, “cuộc chống đối làm sụp đổ chủ nghĩa Mát-Xít” như sau: “Hãy nhớ rằng tất cả là mười triệu người tích cực tham dự. Sự bất mãn đã bộc phát ở một mức độ ngoài dự liệu. Sau mười tám tháng chống đối chính quyền cộng sản mà không cần sô xát như tấn công ngục Bastilles, không cần dựng nên các đoạn đầu đài, không một mảnh kính bị đập bể, chúng tôi đã chiến thắng” (CI:57).
Chính sách Cởi Mở và Cải Tổ của Mikhail Gorbachev là yếu tố thứ ba định đoạt cho hiện tượng khai tử của chế độ cộng sản Âu Châu.
Đối nội, Gorbachev chủ trương hai chính sách: Cởi Mở về tư tưởng và phát biểu và Cải Tổ về chính trị và kinh tế. Với tinh thần và đường lối này, đối ngoại, Gorbachev cũng chủ trương Cải Tổ lại tất cả, như rút quân khỏi Afghanistan, cắt giảm vũ trang nguyên tử và lực lượng quân sự, khuyến khích khối cộng sản Đông Âu cải tổ chính trị cũng như kinh tế và hứa không can thiệp vào nội bộ cải tổ của mỗi địa phương. Kết quả là những cuộc bùng nổ thực sự đã xẩy ra ở các nước cộng sản Đông Âu.
Khởi đầu là Ba-Lan, ngày 4 và 18 tháng 6 năm 1989, đã tổ chức bầu cử tự do, lần đầu tiên kể từ năm 1947.
Thứ đến là Hung Gia Lợi, ngày 10-9-1989, chính quyền cộng sản đã mở cửa biên giới cho dân Đông Đức từ ngả nước Áo trốn sang Tây Đức, và ngày 18-10-1989, đã chấp nhận hình thức bầu cử đa đảng.
Rồi Tây Đức, ngày 18-10-1989, đã truất phế lãnh tụ cộng sản Erich Honecker, và ngày 9-11-1989 đã mở cửa biên giới, phá đổ bức tường Bá-Linh, để cho dân tha hồ tuốn sang Tây Đức; nhất là, vào ngày 7-12-1989, đảng cộng sản Tây Đức đã tự giải thể và kêu gọi tổ chức bầu cử đa đảng vào tháng 5/1990, để rồi, kết thúc với một nước Đức thống nhất vào ngày 3/10/1990.
Rồi Bulgaria,ngày 10-11-1989, quyền bính trong tay nhà độc tài Todor Zhivkov sau 35 năm đã bị mất vào tay một nhà cải cách.
Rồi Czechoslovakia, ngày 10-12-1989, một chính quyền vừa cộng sản lẫn không cộng sản (đa số) đượcthành hình, dọn đường cho việc bầu cử tự do.
Rồi Romania, ngày 22-12-1989, lãnh tụ Nicolae Ceausescu đã hoàn toàn bất lực trong việc truyền khiến quân đội và bị tử hình ngày 25-12-1989 vì bị kết tội là kẻ thù của dân tộc.
Sau hết, ngay tại Liên Bang Sô Viết, tháng 3/1990, một cuộc bầu cử tự do đã được thực hiện và Gorbachev đã đắc cử tổng thống Liên Bang Sô Viết; ngày 20 và 21/8/1991, nhân cuộc nổi dậy của đảng cộng sản hôm 19-21/8/1991, ba nước cộng hòa Baltic là Estonia, Latvia và Lithunia đã tái tuyên bố độc lập (sau lần đòi độc lập thứ nhất vào tháng 3/1990), kéo theo sự thành lập của Khối Thịnh Vượng Chung vào ngày 21/12/1991 cho 11 trong 12 (trừ Georgia) nước thuôc Cộng Hòa Sô Viết.
Phải chăng, sự sụp đổ của Liên Bang Sô Viết và khối Cộng Sản Đông Âu chỉ là khổ nhục kế của Cộng Sản Nga So<131>? Chính Mikhail Gorbachev, vào tháng 11 năm 1987, đã nói những lời sau đây với các nhân vật trong ủy ban nghiên cứu chính sách của đảng Cộng Sản: “Hỡi các đồng chí, đừng lo về những điều mà tất cả các bạn nghe được có liên quan đến chính sách cởi mở và cải cách vào những năm tới. Những chính sách này chỉ là một nhu cầu đối ngoại mà thôi. Ngoài mục đích đánh bóng, sẽ không có một thay đổi hệ trọng đối nội nào cả. Mục đích của chúng ta là giải giới Hoa Kỳ và làm cho họ tưởng bở. Chúng ta muốn đạt được 3 điều là: thứ nhất, chúng ta muốn lực lượng thỏa hiệp của Hoa Kỳ rút khỏi Âu Châu; thứ hai, chúng ta muốn khí giới nguyên tử của Hoa Kỳ rút khỏi Âu Châu; thứ ba, chúng ta muốn Hoa Kỳ bỏ tiến hành Lực Lượng Chiến Lược Phòng Thủ” (CT: Spring 92).
Những âm mưu thật là thâm độc này của Cộng Sản không phải là không thể có và không thể xẩy ra. Tuy nhiên, nếu quả thật như vậy thì họ đã đi một nước cờ quá liều, đến nỗi, thực tế đã xẩy ra hoàn toàn ngoài tầm kiểm soát và dự tính của họ. Phải chăng "Họ đã đào hố trước mặt tôi, nhưng họ lại rơi ngay xuống hố họ đào" (TV 57:7).
Quả thât đường lối Chúa thật khôn dò. Ngài không hề phạm đến tự do mà Ngài đã ban cho con người, thế mà con người vẫn không thể nào đi lệch khỏi những gì Ngài đã định liệu từ trước theo Thượng Trí vô cùng khôn ngoan của Ngài. Thiên Chúa là chúa tể muôn loài. Chính Ngài, chứ không phải Cesar, không phải Napoleon, không phải Hítler, không phải Lenin, không phải ai hết... điều hành lịch sử loài người. Do đó, tât cả những gì Ngài đã định liệu, chắc chắc sẽ xẩy ra khi tới thời điểm của nó.
Phải, thời điểm tận số của cộng sản tại Liên Bang Sô Viết sau 74 năm làm kinh hoàng chung thế giới và đọa đầy riêng nhân dân Nga, thât sự đã xẩy ra khi tổng thống Liên Bang Sô Viết Gorbachev từ chức vào chính ngày lễ kỷ niệm Thiên Chúa giáng sinh 1991, ngày mà các thần trời, hiện thân của hòa bình, như Thiên Thần Hòa Bình, vị hiện ra với 3 Thiếu Nhi Fatima năm 1916, đã từ trời cao xuống giữa đêm đông âm u rét buốt của trần gian năm xưa ấy, để cùng nhau hợp xướng tung hô:
"Vinh Danh Thiên Chúa trên trời,
Bình an dưới thế cho người Chúa thương" (Lc 2:14)
NHỮNG LẦN MẸ HIỆN RA
Tại sao cho đến thế kỷ 20 này, vào ngày 13/6 và 13/7/1917, qua Mẹ Maria, Thiên Chúa mới tỏ ý “muốn thiết lập việc tôn sùng Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ trên thế giới”?
Phải chăng: Đã đến thời tận thế?
Thật vậy, theo thánh Louis Marie Grignion De Monfort, “Ơn cứu rỗi của thế giới nhờ Mẹ Maria được khởi sự thế nào thì cũng qua Mẹ Maria mà được hoàn tất như vậy... Là đường để Chúa Giêsu đến với chúng ta lần thứ nhất thế nào, Mẹ cũng là đường để Ngài đến lần thứ hai như vậy, tuy không cùng một kiểu cách” (TTSKMM, 49, 50.4).
Như thế, phải chăng, hễ bất cứ lúc nào con người thấy Thiên Chúa bắt đầu muốn tỏ Mẹ của Ngài ra cho thế giới biết thì lúc ấy chính là thời tận thế?
Không phải hay sao, tại Fatima, chính Mẹ đã tỏ cho con người biết rằng: “Thiên Chúa muốn (dùng con, chị Lucia) để làm cho Mẹ được nhận biết và yêu mến... Thiên Chúa muốn thiết lập lòng tôn sùng Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ trên thế giới”.
Do đó, có thể tin rằng đây là thời tận thế vậy!?!
Vả lại, còn một sự kiện nữa có thể chứng minh được rằng đây là thời tận thế. Đó là sự kiện xuất hiện của Thiên Thần tại Fatima năm 1916, trước năm 1917 là năm Mẹ hiện ra với ba Thiếu Nhi cũng tại Fatima. Tại sao sự kiện Thiên Thần hiện ra ở Fatima lại có liên hệ đến thời gian sau hết của loài người như thế? Bởi vì, trong dụ ngôn cỏ lùng vực, Chúa đã nói đến vai trò của các thiên thần là “những thợ gặt” (Mathêu 13:39) trong ngày cuối thời.Trong ngày truyền tin Ngôi Lời nhập thể, tức ngày Chúa Kitô đến trần gian lần thứ nhất trong, qua và nhờ cung lòng trinh nguyên của Mẹ Maria, không phải cũng đã có mặt của thiên thần hay sao.
Các thiên thần đã thực hiện sứ mạng làm “những thợ gặt”của mình ở chỗ, chỉ vẽ cho con cái của Giáo Hội nói chung và cho con cái của Mẹ như ba Thiếu Nhi được Mẹ tuyển chọn nói riêng, biết hợp cùng Mình Máu Thánh của Chúa Kitô đã được cấu tạo và hạ sinh bởi Mẹ Maria, để tin yêu Thiên Chúa thay cho các tội nhân cũng như để đền tạ Ngài cầu cho các tội nhân. Nếu các con cái của Mẹ làm đúng như lời thiên thần dạy, như Mẹ đã “xin vâng” như lời thiên thần truyền, chắc chắn các tội nhân sẽ được Thiên Chúa cứu rỗi. Như thế, không phải là các thiên thần đã gặt hái các linh hồn trong thời tận thế này hay sao!
Thật sự, theo Thánh Kinh, “thời sau hết” bắt đầu kể từ khi “Ngôi Lời hóa thành nhục thể và ở giữa chúng ta” (Gioan 1:14): “Vào những thời đã qua, Thiên Chúa đã dùng các tiên tri mà nói với cha ông chúng ta qua nhiều thể nhiều cách; vào thời sau hết này Ngài đã nói với chúng ta qua Con của Ngài..”(Do Thái 1:2).
Bởi thế, những đoạn Thánh Kinh Tân Ước nói về những gì xẩy ra vào “những ngày sau hết” (2Phêrô 3:3; 2Timôthêu 3:1) hay vào “giờ sau hết” (1Gioan 2:18) không phải chỉ nói đến những gì xẩy ra cho riêng ngày tận thế, cho bằng nói đến chung những gì xẩy ra cho Giáo Hội kể từ khi Chúa Kitô về trời. Chẳng hạn, câu “Hỡi các con, vào thời giờ sau hết, như các con đã nghe thấy những Phản Kitô đã đến, lúc này đây nhiều Phản Kitô như vậy đã xuất hiện rồi. Như thế là chúng ta nắm chắc được rằng đây là thời giờ sau hết” (1Gioan 2: 18). Ở đây, Thánh Kinh xác định r “Phản Kitô đã đến... đã xuất hiện”, vào chính thời những câu văn này được viết ra từ thế kỷ thứ nhất sau Công Nguyên.
Nếu bắt đầu kể từ khi Thiên Chúa tỏ Mình Ngài ra qua Ngôi Lời nhập thể và cứu thế được gọi là “thời sau hết”, thì kể từ lúc Chúa Kitô muốn tỏ Mình Ngài ra qua Mẹ của Ngài, tức muốn Mẹ Ngài được nhận biết và yêu mến để Ngài, như thánh Louis Maria Grignion De Monfort viết trong cuốn Thành Thực Sùng Kính: ”Vào lần Chúa Giêsu đến lần thứ hai, Chúa Thánh Thần sẽ làm cho Mẹ Maria được biết đến và tỏ hiện, để, qua
Mẹ, Chúa Giêsu cũng được nhận biết, yêu mến và phụng sự” (TTDTM,49), cũng có thể được gọi là “thời tận thế”. Do đó, “thời tận thế” có thể nói được là “Thời của Mẹ” hay “Thời Đại Maria”.
Đây không phải là Thời của Mẹ Maria, là Thời Đại Maria hay sao? Ba sự kiện sau đây có thể chứng minh được quả quyết này. Sự kiện thứ nhất là những lần Mẹ hiện ra (được Giáo Hội chính thức công nhận) từ đầu thế kỷ 19 đến nay. Sự kiện thứ hai là các tín điều về Mẹ được Giáo Hội tuyên tín và công bố. Và sự kiện thứ ba là phong trào tượng Mẹ Thánh Du khắp thế giới. Trong chương này chỉ nói đến những lần Mẹ hiện ra từ đầu thế kỷ 19 mà thôi.
Trong 18 thế kỷ đầu của lịch sử Giáo Hội, Đức Mẹ chỉ hiện ra một số lần, nếu tổng cộng lại, còn ít hơn số lần Mẹ hiện ra vào khoảng thời gian hai thế kỷ của “thời tận thế” này. Chẳng hạn: Cuối thế kỷ thứ 12, Mẹ đã hiện ra hai lần vào năm 1198 và 1199. Năm 1198, với thánh Simon Stock và năm 1199 với thánh Đa- Minh. Với thánh Simon Stock, Đức Mẹ hiện ra tại nơi ngài ẩn tu 20 năm, vào lúc 12 giờ trưa ngày 12/5, để giới thiệu Áo Đức Bà và truyền cho đi phổ biến cho người ta. Với thánh Đaminh, Đức Mẹ đã hiện ra vào tháng 5 khi ngài đang ở một miền núi nước Tây Ban Nha, đưa cho ngài chuỗi Mân Côi, dạy cho ngài biết sử dụng kinh Mân Côi đẻ làm khí giới chống bè rối Albigense.
Vào thế kỷ 16, năm 1531, Mẹ hiện ra với Juan ở Guadalup, nước Mễ Tây Cơ để xin dựng một đền thờ kính Mẹ, nơi mà Mẹ muốn dùng để ban ơn cho những ai đến cầu khẩn Mẹ.
Vào thế kỷ 17, Mẹ đã hiện ra với chị đáng kính Maria D'Agreda trong khoảng thời gian 1627-1637 để tỏ và dạy cho mẹ bề trên tu viện thánh Clara Khó Khăn Mẹ Vô Nhiễm này biết về cuộc đời của Mẹ. Tất cả những gì được Mẹ mạc khải cho biết, chị đã viết lại thành truyện về cuộc đời Mẹ với tựa đề Thiên Nhiệm Đô.
Thế mà, kể từ đầu thế kỷ 19, nếu chỉ kể đến những nơi được Giáo Hội chính thức công nhận, Mẹ đã hiện ra liên tiếp nhiều lần, mỗi lần Mẹ ban những sứ điệp hệ trọng liên quan đến vận mệnh của riêng một dân nước hay của chung cả loài người.
NĂM 1830, Ở BA-LÊ, nước Pháp, Mẹ đã hiện ra với một chị tập sinh thuộc dòng Nữ Tử Bác Ái thánh Vinh-Sơn Phao-Lô là Catarina Labuarê,(vị nữ tu đã được Đức Thánh Cha Piô XII phong thánh năm 1947 và được Giáo Hội kính nhớ hằng năm vào ngày 28-11), ba lần, lần thứ nhất vào 11 giờ 30 đêm ngày 18 cho đến 1 giờ 30 sáng ngày 19 tháng 7, lần thứ hai vào ngày Thứ Bảy 27 tháng 11, và lần thứ ba vào tháng 12 cùng năm để hỏi chị về việc mà Mẹ đã trao cho chị.
Vào lần hiện ra thứ nhất, Đức Mẹ đã nói với chị như sau:
“Những điều khủng khiếp sắp xẩy ra ở nước Pháp. Ngai vàng sẽ bị hủy hoại và cả thế giới sẽ bị kinh động vì những tai ương rùng rợn ... Thánh giá sẽ bị chà đạp ... Máu sẽ chảy trên đường phố... Thế giới chìm ngập trong sầu thảm...” (TWSC: 17-18)
Vào lần hiện ra thứ hai, Đức Mẹ đứng trên quả cầu, đồng thời cũng cầm trên tay một quả cầu nhỏ có thánh giá trên đầu quả cầu, và nói:
“Quả cầu mà con thấy đây là thế giới. Mẹ vẫn cầu nguyện cho nó và cho mọi người trong thế giới này...” (TWSC:19). Thế rồi, sau đó, quả cầu trên tay Mẹ biến đi, hai tay Mẹ xuôi xuống, và Mẹ được bao quanh bằng một vòng trái xoan với hàng chữ: “Ôi Maria đầu thai vô nhiễm tội, cầu cho chúng con chạy đến cùng Mẹ” (TWSC:19). Chị nghe thấy tiếng nói với chị: “Hãy theo hình ảnh này mà làm một mẫu ảnh bằng kim loại. Tất cả những ai đeo nó sau khi được làm phép sẽ lãnh nhận được nhiều ơn, nhất là khi họ đeo nó ở cổ” (TWSC:19).
NĂM 1846, Ở LA SALETTE, cũng nước Pháp, Mẹ đã hiện ra với hai thiếu niên là Melanie Mathieu (nữ, 14 tuổi) và Maximin Giraud (nam, 11 tuổi) vào ngày Thứ Bảy, 19-9.
Khi hiện ra với hai thiếu niên này, Đức Mẹ đã than thở, kêu gọi và chỉ dạy những điều sau đây:
“Hỡi các con của Mẹ, đừng sợ, hãy đến đây với Mẹ. Mẹ đến để cho các con biết những điều quan trọng. Nếu các con không nghe lời Mẹ, thì Mẹ đành phải buông cánh tay Con của Mẹ. Cách tay của Ngài đè nặng đến nỗi Mẹ không còn cản lại được nữa. Mẹ còn phải chịu khổ vì các con đến bao giờ... Cầu nguyện thật là khẩn thiết, cả sáng lẫn tối. Nếu các con không có giờ, tối thiểu hãy đọc kinh Lạy Cha và kinh Kính Mừng. Nếu có giờ, hãy đọc nhiều hơn” (TWSC:41-43,45-46)
Sau khi Mẹ hiện ra với 2 thiếu niên này, Đức Thánh Cha Piô IX muốn biết về Bí Mật La Salette. Trong khi viết ra những điều bí mật theo ý muốn của Đức Thánh Cha, Melanie đã hỏi về ý nghĩa của chữ “vô ngộ” và xin đánh vần cho chữ “phản Kitô”. Sau khi đọc những điều hai thiếu niên này viết, Đức Thánh Cha đã nói với những kẻ muốn biết về bí mật như sau: “Các con muốn biết bí mật này ư? Nó là thế này: 'Nếu các ngươi không ăn năn hối cải, tất cả các ngươi sẽ bị tiêu diệt'”.
NĂM 1858, Ở LỘ-ĐỨC, một lần nữa cũng tại nước Pháp, Mẹ đã hiện ra với một em gái 14 tuổi tên là Bernadette Soubirous, (sau này được Đức Thánh Cha Piô XI phong thánh năm 1933, và được Giáo Hội kính nhớ hằng năm vào ngày 16-4), 18 lần, từ ngày 11 tháng 2 đến 16 tháng 7.
Sứ điệp của Mẹ trong những lần hiện ra tại đây là:
Vào ngày 18/2: “Ta không hứa làm cho con được hạnh phúc ở đời này, mà là ở đời sau” (THAL:88);
- Vào ngày 24/2: “Hãy hối cải, hối cải. Hãy cầu nguyện cùng Chúa cho các tội nhân và hãy ăn năn hôn đất
cầu cho các tội nhân trở lại” (THAL:96);
- Vào ngày 25/3: “Ta là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội” (THAL:113).
NĂM 1917, Ở FATIMA, nước Bô Đào Nha, Mẹ đã hiện ra với ba Thiếu Nhi là Giaxinta (nữ, 7 tuổi), Phanxicô (nam, 9 tuổi) và Lucia (nữ, 10 tuổi) sáu lần, năm ngày 13/5-6-7-9-10 và một ngày 19/8.
Theo chị Lucia thuật lại trong Hồi Ký của chị, lần hiện ra nào Mẹ cũng kêu gọi "hãy lần hạt Mân Côi hằng ngày". Mục đích lần hạt Mân Côi này, như Mẹ nói, là "để cầu cho hòa bình thế giới".
Lần hiện ra thứ hai, Mẹ cho biết ý Chúa muốn thiết lập lòng tôn sùng Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ trên thế giới.
Lần hiện ra thứ ba, Mẹ cho ba Thiếu Nhi thị kiến thấy hỏa ngục và tiết lộ ba Bí Mật.
Lần cuối cùng, Mẹ xưng mình: “Ta là Đức Mẹ Mân Côi”, rồi Mẹ làm phép lạ cho mặt trời nhẩy múa để mọi người tin.
NĂM 1932 VÀ 1933, Ở BEAURAING, nước Bỉ, Mẹ đã hiện ra với năm em học sinh, 4 nữ và 1 nam, đó là Fernande (15 tuổi), Andree (14 tuổi), Gilberte Voisin (13 tuổi), Albert (11 tuổi), Gilberte Degeimbre (9 tuổi), 33 lần, từ ngày 29/11/1932 đến 3/1/1933.
Sứ điệp Mẹ đã ban vào những lần hiện ra với một số điều quan trọng như:
- Vào ngày 21/12/1932: “Mẹ là Trinh Nữ Vô Nhiễm Nguyên Tội” (AWCWTS:225);
- Vào ngày 30/12/1932: “Hãy cầu nguyện, cầu nguyện thật nhiều” (AWCWTS:226);
- Vào ngày 1/1/1933: “Hãy luôn luôn cầu nguyện” (AWCWTS:226).
- Lần cuối cùng, 3/1/1933, Đức Mẹ nói với Gilberte Voisin: “Mẹ sẽ làm cho các tội nhân ăn năn hối cải”, với Andree: “Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, Nữ Vương Thiên đàng. Hãy luôn cầu nguyện” (AWCWTS:227).
Phải chăng: Đã đến thời tận thế?
Thật vậy, theo thánh Louis Marie Grignion De Monfort, “Ơn cứu rỗi của thế giới nhờ Mẹ Maria được khởi sự thế nào thì cũng qua Mẹ Maria mà được hoàn tất như vậy... Là đường để Chúa Giêsu đến với chúng ta lần thứ nhất thế nào, Mẹ cũng là đường để Ngài đến lần thứ hai như vậy, tuy không cùng một kiểu cách” (TTSKMM, 49, 50.4).
Như thế, phải chăng, hễ bất cứ lúc nào con người thấy Thiên Chúa bắt đầu muốn tỏ Mẹ của Ngài ra cho thế giới biết thì lúc ấy chính là thời tận thế?
Không phải hay sao, tại Fatima, chính Mẹ đã tỏ cho con người biết rằng: “Thiên Chúa muốn (dùng con, chị Lucia) để làm cho Mẹ được nhận biết và yêu mến... Thiên Chúa muốn thiết lập lòng tôn sùng Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ trên thế giới”.
Do đó, có thể tin rằng đây là thời tận thế vậy!?!
Vả lại, còn một sự kiện nữa có thể chứng minh được rằng đây là thời tận thế. Đó là sự kiện xuất hiện của Thiên Thần tại Fatima năm 1916, trước năm 1917 là năm Mẹ hiện ra với ba Thiếu Nhi cũng tại Fatima. Tại sao sự kiện Thiên Thần hiện ra ở Fatima lại có liên hệ đến thời gian sau hết của loài người như thế? Bởi vì, trong dụ ngôn cỏ lùng vực, Chúa đã nói đến vai trò của các thiên thần là “những thợ gặt” (Mathêu 13:39) trong ngày cuối thời.Trong ngày truyền tin Ngôi Lời nhập thể, tức ngày Chúa Kitô đến trần gian lần thứ nhất trong, qua và nhờ cung lòng trinh nguyên của Mẹ Maria, không phải cũng đã có mặt của thiên thần hay sao.
Các thiên thần đã thực hiện sứ mạng làm “những thợ gặt”của mình ở chỗ, chỉ vẽ cho con cái của Giáo Hội nói chung và cho con cái của Mẹ như ba Thiếu Nhi được Mẹ tuyển chọn nói riêng, biết hợp cùng Mình Máu Thánh của Chúa Kitô đã được cấu tạo và hạ sinh bởi Mẹ Maria, để tin yêu Thiên Chúa thay cho các tội nhân cũng như để đền tạ Ngài cầu cho các tội nhân. Nếu các con cái của Mẹ làm đúng như lời thiên thần dạy, như Mẹ đã “xin vâng” như lời thiên thần truyền, chắc chắn các tội nhân sẽ được Thiên Chúa cứu rỗi. Như thế, không phải là các thiên thần đã gặt hái các linh hồn trong thời tận thế này hay sao!
Thật sự, theo Thánh Kinh, “thời sau hết” bắt đầu kể từ khi “Ngôi Lời hóa thành nhục thể và ở giữa chúng ta” (Gioan 1:14): “Vào những thời đã qua, Thiên Chúa đã dùng các tiên tri mà nói với cha ông chúng ta qua nhiều thể nhiều cách; vào thời sau hết này Ngài đã nói với chúng ta qua Con của Ngài..”(Do Thái 1:2).
Bởi thế, những đoạn Thánh Kinh Tân Ước nói về những gì xẩy ra vào “những ngày sau hết” (2Phêrô 3:3; 2Timôthêu 3:1) hay vào “giờ sau hết” (1Gioan 2:18) không phải chỉ nói đến những gì xẩy ra cho riêng ngày tận thế, cho bằng nói đến chung những gì xẩy ra cho Giáo Hội kể từ khi Chúa Kitô về trời. Chẳng hạn, câu “Hỡi các con, vào thời giờ sau hết, như các con đã nghe thấy những Phản Kitô đã đến, lúc này đây nhiều Phản Kitô như vậy đã xuất hiện rồi. Như thế là chúng ta nắm chắc được rằng đây là thời giờ sau hết” (1Gioan 2: 18). Ở đây, Thánh Kinh xác định r “Phản Kitô đã đến... đã xuất hiện”, vào chính thời những câu văn này được viết ra từ thế kỷ thứ nhất sau Công Nguyên.
Nếu bắt đầu kể từ khi Thiên Chúa tỏ Mình Ngài ra qua Ngôi Lời nhập thể và cứu thế được gọi là “thời sau hết”, thì kể từ lúc Chúa Kitô muốn tỏ Mình Ngài ra qua Mẹ của Ngài, tức muốn Mẹ Ngài được nhận biết và yêu mến để Ngài, như thánh Louis Maria Grignion De Monfort viết trong cuốn Thành Thực Sùng Kính: ”Vào lần Chúa Giêsu đến lần thứ hai, Chúa Thánh Thần sẽ làm cho Mẹ Maria được biết đến và tỏ hiện, để, qua
Mẹ, Chúa Giêsu cũng được nhận biết, yêu mến và phụng sự” (TTDTM,49), cũng có thể được gọi là “thời tận thế”. Do đó, “thời tận thế” có thể nói được là “Thời của Mẹ” hay “Thời Đại Maria”.
Đây không phải là Thời của Mẹ Maria, là Thời Đại Maria hay sao? Ba sự kiện sau đây có thể chứng minh được quả quyết này. Sự kiện thứ nhất là những lần Mẹ hiện ra (được Giáo Hội chính thức công nhận) từ đầu thế kỷ 19 đến nay. Sự kiện thứ hai là các tín điều về Mẹ được Giáo Hội tuyên tín và công bố. Và sự kiện thứ ba là phong trào tượng Mẹ Thánh Du khắp thế giới. Trong chương này chỉ nói đến những lần Mẹ hiện ra từ đầu thế kỷ 19 mà thôi.
Trong 18 thế kỷ đầu của lịch sử Giáo Hội, Đức Mẹ chỉ hiện ra một số lần, nếu tổng cộng lại, còn ít hơn số lần Mẹ hiện ra vào khoảng thời gian hai thế kỷ của “thời tận thế” này. Chẳng hạn: Cuối thế kỷ thứ 12, Mẹ đã hiện ra hai lần vào năm 1198 và 1199. Năm 1198, với thánh Simon Stock và năm 1199 với thánh Đa- Minh. Với thánh Simon Stock, Đức Mẹ hiện ra tại nơi ngài ẩn tu 20 năm, vào lúc 12 giờ trưa ngày 12/5, để giới thiệu Áo Đức Bà và truyền cho đi phổ biến cho người ta. Với thánh Đaminh, Đức Mẹ đã hiện ra vào tháng 5 khi ngài đang ở một miền núi nước Tây Ban Nha, đưa cho ngài chuỗi Mân Côi, dạy cho ngài biết sử dụng kinh Mân Côi đẻ làm khí giới chống bè rối Albigense.
Vào thế kỷ 16, năm 1531, Mẹ hiện ra với Juan ở Guadalup, nước Mễ Tây Cơ để xin dựng một đền thờ kính Mẹ, nơi mà Mẹ muốn dùng để ban ơn cho những ai đến cầu khẩn Mẹ.
Vào thế kỷ 17, Mẹ đã hiện ra với chị đáng kính Maria D'Agreda trong khoảng thời gian 1627-1637 để tỏ và dạy cho mẹ bề trên tu viện thánh Clara Khó Khăn Mẹ Vô Nhiễm này biết về cuộc đời của Mẹ. Tất cả những gì được Mẹ mạc khải cho biết, chị đã viết lại thành truyện về cuộc đời Mẹ với tựa đề Thiên Nhiệm Đô.
Thế mà, kể từ đầu thế kỷ 19, nếu chỉ kể đến những nơi được Giáo Hội chính thức công nhận, Mẹ đã hiện ra liên tiếp nhiều lần, mỗi lần Mẹ ban những sứ điệp hệ trọng liên quan đến vận mệnh của riêng một dân nước hay của chung cả loài người.
NĂM 1830, Ở BA-LÊ, nước Pháp, Mẹ đã hiện ra với một chị tập sinh thuộc dòng Nữ Tử Bác Ái thánh Vinh-Sơn Phao-Lô là Catarina Labuarê,(vị nữ tu đã được Đức Thánh Cha Piô XII phong thánh năm 1947 và được Giáo Hội kính nhớ hằng năm vào ngày 28-11), ba lần, lần thứ nhất vào 11 giờ 30 đêm ngày 18 cho đến 1 giờ 30 sáng ngày 19 tháng 7, lần thứ hai vào ngày Thứ Bảy 27 tháng 11, và lần thứ ba vào tháng 12 cùng năm để hỏi chị về việc mà Mẹ đã trao cho chị.
Vào lần hiện ra thứ nhất, Đức Mẹ đã nói với chị như sau:
“Những điều khủng khiếp sắp xẩy ra ở nước Pháp. Ngai vàng sẽ bị hủy hoại và cả thế giới sẽ bị kinh động vì những tai ương rùng rợn ... Thánh giá sẽ bị chà đạp ... Máu sẽ chảy trên đường phố... Thế giới chìm ngập trong sầu thảm...” (TWSC: 17-18)
Vào lần hiện ra thứ hai, Đức Mẹ đứng trên quả cầu, đồng thời cũng cầm trên tay một quả cầu nhỏ có thánh giá trên đầu quả cầu, và nói:
“Quả cầu mà con thấy đây là thế giới. Mẹ vẫn cầu nguyện cho nó và cho mọi người trong thế giới này...” (TWSC:19). Thế rồi, sau đó, quả cầu trên tay Mẹ biến đi, hai tay Mẹ xuôi xuống, và Mẹ được bao quanh bằng một vòng trái xoan với hàng chữ: “Ôi Maria đầu thai vô nhiễm tội, cầu cho chúng con chạy đến cùng Mẹ” (TWSC:19). Chị nghe thấy tiếng nói với chị: “Hãy theo hình ảnh này mà làm một mẫu ảnh bằng kim loại. Tất cả những ai đeo nó sau khi được làm phép sẽ lãnh nhận được nhiều ơn, nhất là khi họ đeo nó ở cổ” (TWSC:19).
NĂM 1846, Ở LA SALETTE, cũng nước Pháp, Mẹ đã hiện ra với hai thiếu niên là Melanie Mathieu (nữ, 14 tuổi) và Maximin Giraud (nam, 11 tuổi) vào ngày Thứ Bảy, 19-9.
Khi hiện ra với hai thiếu niên này, Đức Mẹ đã than thở, kêu gọi và chỉ dạy những điều sau đây:
“Hỡi các con của Mẹ, đừng sợ, hãy đến đây với Mẹ. Mẹ đến để cho các con biết những điều quan trọng. Nếu các con không nghe lời Mẹ, thì Mẹ đành phải buông cánh tay Con của Mẹ. Cách tay của Ngài đè nặng đến nỗi Mẹ không còn cản lại được nữa. Mẹ còn phải chịu khổ vì các con đến bao giờ... Cầu nguyện thật là khẩn thiết, cả sáng lẫn tối. Nếu các con không có giờ, tối thiểu hãy đọc kinh Lạy Cha và kinh Kính Mừng. Nếu có giờ, hãy đọc nhiều hơn” (TWSC:41-43,45-46)
Sau khi Mẹ hiện ra với 2 thiếu niên này, Đức Thánh Cha Piô IX muốn biết về Bí Mật La Salette. Trong khi viết ra những điều bí mật theo ý muốn của Đức Thánh Cha, Melanie đã hỏi về ý nghĩa của chữ “vô ngộ” và xin đánh vần cho chữ “phản Kitô”. Sau khi đọc những điều hai thiếu niên này viết, Đức Thánh Cha đã nói với những kẻ muốn biết về bí mật như sau: “Các con muốn biết bí mật này ư? Nó là thế này: 'Nếu các ngươi không ăn năn hối cải, tất cả các ngươi sẽ bị tiêu diệt'”.
NĂM 1858, Ở LỘ-ĐỨC, một lần nữa cũng tại nước Pháp, Mẹ đã hiện ra với một em gái 14 tuổi tên là Bernadette Soubirous, (sau này được Đức Thánh Cha Piô XI phong thánh năm 1933, và được Giáo Hội kính nhớ hằng năm vào ngày 16-4), 18 lần, từ ngày 11 tháng 2 đến 16 tháng 7.
Sứ điệp của Mẹ trong những lần hiện ra tại đây là:
Vào ngày 18/2: “Ta không hứa làm cho con được hạnh phúc ở đời này, mà là ở đời sau” (THAL:88);
- Vào ngày 24/2: “Hãy hối cải, hối cải. Hãy cầu nguyện cùng Chúa cho các tội nhân và hãy ăn năn hôn đất
cầu cho các tội nhân trở lại” (THAL:96);
- Vào ngày 25/3: “Ta là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội” (THAL:113).
NĂM 1917, Ở FATIMA, nước Bô Đào Nha, Mẹ đã hiện ra với ba Thiếu Nhi là Giaxinta (nữ, 7 tuổi), Phanxicô (nam, 9 tuổi) và Lucia (nữ, 10 tuổi) sáu lần, năm ngày 13/5-6-7-9-10 và một ngày 19/8.
Theo chị Lucia thuật lại trong Hồi Ký của chị, lần hiện ra nào Mẹ cũng kêu gọi "hãy lần hạt Mân Côi hằng ngày". Mục đích lần hạt Mân Côi này, như Mẹ nói, là "để cầu cho hòa bình thế giới".
Lần hiện ra thứ hai, Mẹ cho biết ý Chúa muốn thiết lập lòng tôn sùng Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ trên thế giới.
Lần hiện ra thứ ba, Mẹ cho ba Thiếu Nhi thị kiến thấy hỏa ngục và tiết lộ ba Bí Mật.
Lần cuối cùng, Mẹ xưng mình: “Ta là Đức Mẹ Mân Côi”, rồi Mẹ làm phép lạ cho mặt trời nhẩy múa để mọi người tin.
NĂM 1932 VÀ 1933, Ở BEAURAING, nước Bỉ, Mẹ đã hiện ra với năm em học sinh, 4 nữ và 1 nam, đó là Fernande (15 tuổi), Andree (14 tuổi), Gilberte Voisin (13 tuổi), Albert (11 tuổi), Gilberte Degeimbre (9 tuổi), 33 lần, từ ngày 29/11/1932 đến 3/1/1933.
Sứ điệp Mẹ đã ban vào những lần hiện ra với một số điều quan trọng như:
- Vào ngày 21/12/1932: “Mẹ là Trinh Nữ Vô Nhiễm Nguyên Tội” (AWCWTS:225);
- Vào ngày 30/12/1932: “Hãy cầu nguyện, cầu nguyện thật nhiều” (AWCWTS:226);
- Vào ngày 1/1/1933: “Hãy luôn luôn cầu nguyện” (AWCWTS:226).
- Lần cuối cùng, 3/1/1933, Đức Mẹ nói với Gilberte Voisin: “Mẹ sẽ làm cho các tội nhân ăn năn hối cải”, với Andree: “Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, Nữ Vương Thiên đàng. Hãy luôn cầu nguyện” (AWCWTS:227).
Blog Archive
Labels
- 10 điều răn (1)
- Archangles (5)
- Breviary (44)
- CHÚA GIÊSU ĐANG SỐNG (15)
- Dụ ngôn của Chúa (4)
- Film về Chúa (1)
- Hong An Thien Chua (20)
- Jesus Christ (9)
- linh hồn nơi luyện ngục (72)
- Lời Chúa (1)
- Lời chứng (42)
- Lyrics (1)
- Message (39)
- Mother of God (13)
- Nhà thờ (1)
- Niềm Tin Minh Hoạ (6)
- Phép lạ (21)
- Phúc thật tám mối (1)
- Rosary (18)
- Saints (8)
- Songs (4)
- Thánh ca (1)
- Thánh địa (1)
- The meaning (2)
- Tiên tri (1)
- Tiếng thì thầm (1)
- Truyện hay (8)