Pages

24/9/09

Tha Thứ

Tha thứ

Có một người hành khất đến trước cửa nhà một người giàu có để xin bố thí. Nhưng mặc cho người khốn khổ van xin, người giàu có vẫn ngoảnh mặt làm ngơ. Đến một lúc không chịu được những lời van xin đó, thay vì bố thí, người giàu có đã lấy đá ném vào người hành khất.

Con người khốn khổ ấy lặng lẽ nhặt lấy hòn đá cho vào bị rồi thì thầm trong miệng: "Ta mang hòn đá này cho đến ngày nhà ngươi sa cơ thất thế. Ta sẽ dùng nó để ném trả lại ngươi"

Năm tháng trôi qua lời chúc dữ của người hành khất đã thành sự thật, Vì biển lận người giàu có bị tước đoạt tất cả tài sản và bị tống giam vào ngục. Ngày hôm đó, người hành khất cũng chứng kiến cảnh người ta áp giải người giàu có vào ngục. Nỗi căm hờn sôi sục trong lòng ông, ông đi theo đoàn người, và tay không rời hòn đá mà người giàu có đã ném vào ông năm xưa. Ông muốn ném hòn đà vào người tù để rửa sạch mối nhục ông đã phải chịu

Nhưng cuối cùng, nhìn thấy gương mặt tiều tụy đáng thương của kẻ đang bị cùm tay, người hành khất thả nhẹ hòn đá xuống đất rồi tự nhủ: ''Tại sao ta phải mang nặng hòn đá này từ bao năm qua? Con người này, giờ đây chỉ là một kẻ khốn khổ như ta mà thôi"



Ý NGHĨA:

Mạng lịnh khó thực hiện nhất của Chúa Giêsu đó là: "Anh em phải thương yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ oán ghét anh em"

Tha thứ là điều khó khăn nhất,cũng là điều cao cả nhất, trao ban tiền của, trao ban thì giờ, và ngay cả trao ban chính mạng sống mình là điều xem ra còn dễ làm hơn là trao ban sự tha thứ. Tha thứ là tuyệt đỉnh của yêu thương, bởi vì tha thứ là yêu thương chính kẻ thù của mình.

Tha thứ tức là tạo cho ta niềm vui trong lòng. Vui vì được Chúa tha thứ tội lỗi cho ta. Vui vì mình đã làm một nghĩa cử cao đẹp mà ít người làm được. Vui vì mình không phải bận tâm với những tư tưởng trả thù, không bị gò bó trói buộc vào những chuyện đen tối,nhưng sẽ tự do trong cõi lòng thư thái, thong dong.

Người Ăn Cắp Cừu

"Ai ai cũng có bí mật và những chuyện không thể cho người khác biết "

Chào bạn, có thể bạn đã từng làm một chuyện gì đó rất là gian ác, và không thể tha thứ cho bản thân mình. Và chuyện đó đã khiến bạn lúc nào cũng ray rứt và đau buồn. Nhưng bạn hãy tin vào tình yêu bao la của Thiên Chúa. Dù bạn có tội lỗi cách mấy, có làm biết bao đều sai phạm. Chỉ cần bạn thật lòng thống hối, và quyết tâm làm lại cuộc đời, trở về bên Chúa. Thì bạn có thể trút bỏ gánh nặng, đừng nên lo lắng về chuyện đã qua, hãy sống thật tốt để quá khứ không còn là mối dây ràng buộc chính bạn, mà thoát khỏi để trở thành một người hòan toàn mới. Trên đời này ai mà không sai phạm, nhưng biết sai chịu sửa thì đó mới là điều đáng quý . Sau đây là một câu chuyện nói về tình cảnh giống như bạn bấy giờ.

người ăn cắp cừu

Tại một miền quê bên Mỹ, vào thời kỳ lập quốc. Có hai anh em nhà kia bị bắt quả tang đang ăn cắp cừu. Dân trong làng đã mở tòa án nhân dân để trừng phạt .

Sau khi nghị án mọi người đều đồng thanh cho khắc trên trán của tội nhân hai chữ viết tắt S.T có nghĩa là "người ăn cắp cừu ".

Một trong hai người ăn trộm đã không chịu nổi sự sỉ nhục, đã trốn sang một vùng đất khác để chôn chặt dĩ vãng của mình. Nhưng anh không thể nào xóa nhòa hai chữ viết tắt trên trán được. Bất cứ người lạ mặt nào cũng đều tra hỏi anh về ý nghĩa của hai chữ. Lại một lần nữa anh rời bỏ nơi cư ngụ mới để tiếp tục lang thang và cuối cùng mòn mỏi trong cay đắng, anh đã bỏ mình nơi đất khách quê người.

Trong khi người anh đã bị sự nhục nhã gậm nhấm đến độ phải trốn suốt cả cuộc đời, thì người em lại tự nói với mình: "Tôi không thể bỏ trốn chỉ vì ăn cắp mấy con cừu. Tôi phải ở lại đây và tạo lại sự tin tưởng nơi những người xung quanh và chính tôi".

Với quyết tâm đó anh đã ở lại trong xứ sở của mình. Không mấy chốc, anh đã xây dựng cho mình một sự nghiệp cũng như danh thơm của một người thanh liêm chính trực.

Nhưng dù năm tháng đã qua đi, hai chữ S.T vẫn còn ghi đậm trên vầng trán của anh...Ngày kia, có một người lạ mặt hỏi một cụ già trong làng về ý nghĩa của hai chữ viết tắt ấy. Cụ già suy nghĩ một hồi rồi trả lời: " Tôi không nhớ rõ lai lịch của hai chữ viết tắt ấy, nhưng cứ nhìn vào cuộc sống của người đó, tôi nghĩ rằng hai chữ viết ấy có nghĩa là Thánh thiện".

Ý NGHĨA:

Hãy tin ở những người xung quanh của bạn vì bạn hữu là điều quan trọng cho một cuộc sống hạnh phúc.

Hãy tin ở hiện tại vì quá khứ đã qua đi.

Hãy tin vào lòng thương của Thiên Chúa vì Ngài tha thứ cho bạn. Vậy bạn hãy tha thứ cho chính mình và người khác.

" Chính lúc thứ tha là khi được tha thứ"

Thiên Chúa không bao giờ thất vọng về chúng ta, và Ngài mời gọi chúng ta cũng đừng thất vọng về chính mình. Mỗi một may mắn là một dịp tiện để chúng ta dâng lời cảm tạ và chúc tụng Chúa. Mỗi một thất bại và đau khổ, là khởi đầu của một nguồn ơn dồi dào hơn. Mỗi một vấp phạm là bàn đạp để chúng ta vươn cao hơn. Bởi vì trong tất cả mọi sự Thiên Chúa luôn yêu thương chúng ta .

Hãy tin nơi bạn vì bạn là hình ảnh của Thiên Chúa.

Và phương thế hữu hiệu nhất chính là cầu nguyện . Bạn hãy dâng lên Thiên Chúa lời nguyện xin:

Lạy Chúa , tội lỗi luôn đè nặng trên lương tâm và giam giữ con, chỉ có Chúa mới có thể giải thoát con. Xin tha thứ cho con và giữ gìn con trong ơn nghĩa Chúa, để con luôn cảm nhận được an bình tự do đích thực mà Chúa sẽ ban cho con . Amen

Con Người Của Sự Cầu Nguyện

Smith Wigglesworth

Tôi hiểu được Đức Chúa Trời nhờ Lời Ngài. Tôi không thể hiểu được Đức Chúa Trời nhờ cảm xúc hay ấn tượng của tôi. Tôi không thể hiểu được Đức Chúa Trời nhờ sự nhậy cảm của bản thân. Tôi chỉ có thể nhận biết Ngài nhờ Lời của Ngài.

Rất nguy hiểm nếu sống noi theo các cảm xúc của mình. chúng ta được cứu không nhờ cảm xúc, mà nhờ Lời Đức Chúa Trời. Sự cứu rỗi thì không thể nào lay chuyển nổi, còn cảm xúc thì hay đổi thay.

Wigglesworth (Uígs-vớt) sẵn lòng đồng cảm của mình cho những tội nhân, những kẻ bệnh, những người bị ức chế, và những người bị quỉ ám, bởi vì ông yêu mến Đức Chúa Trời và dành nhiều thời gian ở trong sự hiện diện của Ngài.

Có ai đó một lần hỏi Uígs-vớt rằng ông thường dành thời gian mình cầu nguyện bao lâu. Ông đáp: "Tôi rất ít khi dành thời gian cầu nguyện nhiều hơn nửa tiếng một lần, nhưng tôi cũng không bao giờ sống nửa tiếng mà không cầu nguyện." Cầu nguyện là một phần sự sống của ông. Đó là điều mà ông ưa thích nhất. Đó là một trong những bí quyết của quyền năng của ông.

Khi người ta nhận được sự chữa lành ngay trong các buổi nhóm của Uígs-vớt, thì đó không chỉ là kết quả của sự đáp lời của Đức Chúa Trời cho lời cầu nguyện, bởi vì rất thường xuyên là thay vì cầu nguyện cho những nhu cầu, Uígs-vớt giảng Lời Chúa cho họ.

Khi Phi-e-rơ và Giăng đến đền thờ để cầu nguyện, họ đụng đầu với một người bệnh vô phương cứu chữa, bị què từ khi lọt lòng mẹ, và người ta đem ông ta đến đền thờ để ăn xin. Anh ta tưởng nhận được tiền bố thí của Phi-e-rơ và Giăng. Nhưng thay vào đó họ lại nói: "Hãy nhìn xem chúng ta." (Công vụ 3:4).

Có thể là chúng ta sẽ nói: "Có thể rút ra kết luận gì ở đây? Dù sao đi nữa thì họ là ai nào? Chắc họ phải có thần kinh vững lắm". Nhưng sau đó Phi-e-rơ nói ra những lời tuyệt vời sau:

Bạc và vàng thì ta chẳng có, song điều ta có thì ta cho ngươi: nhân danh Đức Chúa Jê-sus ở Na-xa-rét hãy đứng dậy và bước đi. Phi-e-rơ nắm tay hữu người đỡ dậy. Tức thì bàn chân và mắt cá người trở nên cứng vững; người liền nhảy, đứng lên và bước đi cùng hai người vào đền thờ, vừa đi, vừa nhẩy, vừa ngọi khen Đức Chúa Trời. (Công vụ 3:6-8).

Hãy để ý những lời đó "... song điều ta có thì ta cho ngươi" (Công vụ 3:6). Đó là sự phục vụ ban cho. Công vụ của Uígs-vớt đã ở cũng chính mức độ đó.

Có một lần ông kể cho tôi, rằng ông đã trải qua một trường hợp tuyệt như thế nào khi dành thời gian đến thăm một thầy tu ở nước Anh. Ông và người tu sĩ ngồi và nói chuyện với nhau sau bữa ăn tối. Chắc chắn chủ đề của câu chuyện là về lời nhờ cầu nguyện giúp, vì con người đáng thương đó không có cả hai chân. Những chân giả thời đó thật khác xa với những chiếc xe lăn tay và nạng chống thời bây giờ.

Uígs-vớt đột nhiên nói với người đàn ông đó (ông thường phục vụ kiểu như vậy trong các trường hợp tương tự): "Sáng mai hãy đi mua lấy đôi giầy."

Người anh em đáng thương kia đã thầm nghĩ rằng đó thật là một câu đùa đau lòng. Dù vậy, khi Uígs-vớt đi về phòng mình ngủ, thì Đức Chúa Trời phán với người thầy tu kia: "Hãy làm theo như đầy tớ Ta đã nói." Thật là một vinh dự làm sao cho bất kỳ ai - đầy tớ của Ta! Chính Đức Chúa Trời đã đánh đồng Mình với Uígs-vớt.

Đêm hôm đó người đàn ông kia không ngủ được. Ông ta dậy thật sớm vào thành phố và đến đợi ở cửa hàng giầy cho đến giờ mở cửa. Người chủ cửa hàng cuối cùng cũng đến mở cửa hàng. Người thầy tu vào trong và ngồi xuống.

Một chút sau có người giúp việc đến và hỏi: "Xin chào buổi sáng, thưa ngài, tôi có thể giúp gì được cho ngài không?"

Người đàn ông nói: "Vâng, anh làm ơn bán cho tôi một đôi giầy."

"Vâng, thưa ngài, cỡ nào và mầu nào?"

Người đàn ông lưỡng lự. Người giúp việc nhìn thấy tình trạng của ông ta và nói: "Xin lỗi ngài, chúng tôi không thể giúp gì cho ngài được."

"Không sao, anh bạn trẻ ơi. Tôi cần có một đôi giầy. Cỡ 8, mầu đen."

Người giúp việc đi lấy đôi giầy đã đặt hàng. Năm phút sau đó anh ta quay lại và trao chúng cho ông ta. Người này xỏ ống chân của mình vào trong giầy, và ngay lập tức cả cẳng chân và bàn chân được thành hình! Sau đó điều tương tự cũng xảy ra với cái chân kia!

Đối với Uígs-vớt điều đó hoàn toàn không bất ngờ chút nào. Ông đã trông đợi kết quả đó. Ông thường thích nhận xét: "Khi chuyện có liên quan đến Đức Chúa Trời, thì Ngài không thấy khác biệt giữa việc làm ra một chi thể mới hay là chữa lành một cái xương gẫy."