Lịch sử Mẹ Mễ Du
Tượng Mẹ Mễ Du trên núi Pobrdo (nơi Mẹ hiện ra cho các Thị nhân)
Nhà thờ St. James (Thánh Giacôbê) làng Mễ Du
Làng Mễ Du (Medjugorje) với dân số vài ngàn cư dân, thuộc tỉnh Mostar (quốc gia Bosnia/Herzegovina). Ngôi làng nhỏ bé nầy nằm giữa hai
ngọn núi Krizevac và Podbrdo (TB.: Mễ Du có nghĩa là nằm giữa 2 ngọn núi).
Ngôi nhà Thờ độc nhất của làng Mễ Du (nhà thờ Thánh Gia-co-bê) do các Cha dòng Franxicô cai quản (cha xứ lúc đó là Fr. Jozo Zovko).
Cuộc sống của dân địa phương rất cực khổ, đại đa số sống nhờ nghề trồng thuốc lá và nho.
Ngày 24 tháng 06 năm 1981 đã có một biến cố rất quan trọng và đã biến đối một ngôi làng nghèo khổ, vô danh trở thành một trong những nơi hành hương nổi tiếng trên thế giới, có thể so sánh với Lộ Đức hoặc Fatima.
Ngày 24.06.1981, cũng là Ngày Lễ Thánh Gioan-Tiền-Hô, một số các em trong làng đã nhìn thấy hình bóng sáng chói của một người Nữ bồng trên tay một Hài Nhi trên viền đồi Pobrdo.
Ngày hôm sau người Nữ lại hiện ra cho các em và xưng danh ”Ta là Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội”. Các em đã nhìn thấy Mẹ hiện ra (hay là những Thị Nhân) gồm có:
Vicka Ivankovic (sinh 03.09.1964) lúc đó 17 tuổi
Mirjana Dragicevic (sinh 18.03.1965) lúc đó 16 tuổi
Marija Pavlovic (sinh 01.04.1965) lúc đó 16 tuổi
Ivan Dragicevic (sinh 25.05.1965) lúc đó 16 tuổi
Ivanka Ivankovic (sinh 21.06.1966) lúc đó 15 tuổi
Jakov Colo (sinh 06.03.1971) lúc đó 10 tuổi
Sau đó mổi ngày Gospa (Gospa tiếng Croatian dịch Our Lady, Bà Lạ, Đức Mẹ, Đức Bà, Mẹ) hiện ra cho các Thị nhân để ban Thông điệp cho họ, cho Giáo xứ và thế giới: những thông điệp về Hoà Bình, sự cần thiết của việc ăn chay, đền tội và tình yêu thương để giúp cho những người đang xa Chúa trở về với Trái Tim Chúa Giêsu. Đồng thời Mẹ cũng truyền cho các Thị nhân một số những “Bí Mật” (TB: Những “Bí Mật” nầy khi gần đến thời điễm Mẹ sẽ cho phép Thị nhân tiết lộ cho thế giới qua trung gian của một Linh mục, mà chính Thị nhân lựa chọn).
Cha xứ Jozo rất tin việc Mẹ hiện ra tại làng Mễ Du, vì có một ngày Mẹ đã hiện ra cho Cha trong nhà Thờ Mễ Du. Đức Giám Mục địa phận Mostar, Monsignor Zanic, lúc đầu cũng tin việc Mẹ hiện ra, nhưng về sau Ngài đổi ý cho rằng các Cha dòng Franxicô đã “bịa đặt” (*Khi ĐGM từ chối hiện tượng Mễ Du thì có một quả bom rớt ngay Toà Giám Mục của ngài. Nhưng ngài đã may mắn thoát chết. Không biết sự việc nầy có phải là Thiên Chúa muốn cảnh cáo ĐGM hay không???).
Do đó năm 1986 Ngài đã đệ trình lên Đức Hồng Y Ratzinger một bản báo cáo ”phủ nhận” sự hiện ra của Mẹ Mễ Du.
Sau đó Đức Hồng Y Ratzinger đã không cho phép ĐGM Zanic tiếp tục điều tra Mẹ Mễ Du, mà Ngài chuyển lên cho Hội Đồng Giám Mục quốc gia (Nam Tư cũ). Đức Giám Mục Monsignor Komarica (thành phố Banja Luka) đứng đầu HĐ chịu trách nhiệm tiếp tục cuộc điều tra hiện tượng Mễ Du.
HĐ tiếp tục điều tra và bắt đầu có sự tiến triễn tốt đẹp, nhưng không dám chính thức công bố (*có thể họ bị sự kiểm soát của Cộng Sản Nam Tư trong thời gian nầy).
Tháng 04 năm 1991 HĐ chính thức công bố “công nhận” làng Mễ Du là nơi “cầu nguyện và phụng thờ”. Những khách Hành hương được phép viếng thăm Làng Mễ Du.
Ngày 21 tháng 08 năm 1996 phát ngôn viên của Toà Thánh Vatican tại Roma, Doctor Navarro Valls, đã nhấn mạnh “lập trường” của Toà Thánh về việc hiện ra của Mẹ Mễ Du: “Nếu như quí vị chưa tìm ra được bằng chứng “giả tạo” tại làng Mễ Du, thì quí vị không thể cấm đoán du khách đến hành hương tại đây. Khi người Công Giáo đến làng Mễ Du với một Đức Tin vững bền thì Tâm Linh của họ cũng bình an. Do đó Nhà Thờ cũng không cấm đoán những linh mục muốn tổ chức những cuộc hành hương sùng kính Mẹ Mễ Du ở Bosnia-Herzegovina”.
Từ tháng 06 năm 1981 đến nay đã có hơn 20 triệu khách hành hương đến viếng thăm ngôi làng bé nhỏ nầy để cầu nguyện và rèn luyện Tâm Linh, tạo cho làng Mễ Du trở thành một trong những nơi hành hương Thánh địa trên thế giới.
TB:
• Năm 1990: chế độ Cộng sản sụp đổ (liên hiệp Nam Tư tan rã)
• Năm 1991-1995: nội chiến bùng nổ. Nội chiến chấm dứt nhờ vào sự bảo trợ của chính phủ Mỹ 1995
• Năm 2004: Bosnia-Herzegovina là thành viên của Europe Union
• Năm 2005: chính quyền chỉ cho phép khách hành hương cư ngụ tại làng Mễ Du tối đa là 2 tuần
Pages
18/5/09
CHÚA GIÊSU ĐANG SỐNG (giới thiệu)
LỜI GIỚI THIỆU
Chúng tôi không thể nào im lặng trước những gì chúng tôi đã thấy và đã nghe. Chúng tôi thấy cần phải lớn tiếng cao rao, cho tất cả nhân loại biết những việc lạ lùng cả thể mà Chúa đã thực hiện từ 10 năm nay: đó là một điều chính đáng, cần thiết và hữu ích.
Những trang này nói lên lời ngợi khen và tạ ơn của những người đã được lãnh nhận ơn Chúa – cách này hay cách khác – trong suốt thời gian rao giảng Tin Mừng với những phép lạ, dấu chỉ và ơn chữa bệnh kèm theo.
Đây không phải là một cuốn sách, nhưng là một chứng từ. Trước khi được soạn thảo, sách Tin Mừng đã được sống và loan truyền. Qua những dòng chữ này, lời loan báo của người rao giảng Tin Mừng vẫn vang động như nhịp tim đang đập, mà chúng ta có thể cảm nhận được, nhất là chúng ta có thể gặp được chính Tin Mừng là Chúa Yêsu Kitô – Đấng hôm qua và hôm nay vẫn là thế, và hằng sống muôn đời. Chính Ngài là trung tâm của những trang sách này.
Cha EMILIANO TARDIF được sánh như con lừa mang Chúa trên lưng, trong ngày Chúa Nhật Lễ Lá. Ngài được diễm phúc chở Chúa đi khắp năm châu. Như chú lừa ở Betfagé, Ngài đã được choàng tặng vòng hoa như ở Tahiti, có nơi lại bị tù tội và bắt bớ như ở Congo; nhưng điều đáng quan tâm không phải là cái bình sành, mà là chính kho tàng chứa bên trong – tức là Chúa Yêsu Kitô.
Đây không phải là quyển sách dạy kỹ thuật cầu nguyện cho bệnh nhân, nhưng là lời chứng rằng: ngày nay, Chúa vẫn chữa lành các con cái bệnh tật của Ngài; không phải là sách dạy thuật chữa bệnh, mà là quyển sách loan báo Tin Mừng. Đây là một tiếng kêu vang tràn đầy hy vọng của những kẻ dám tin rằng: đối với chính Đức Yêsu – Đấng đã chết trên thập giá, đã sống lại và hiện đang sống – mọi sự đều có thể được. Không lạ gì những việc diệu kỳ Thiên Chúa đã làm, bởi lẽ chính Ngài là Đấng Kỳ Diệu!
Tóm lại, điều lớn nhất mà những trang sách này không cần đến, đó là lời nhập đề.
JOSÉ H. PRADO FLORES
Mexico, 24-06-1984
Lễ Thánh Gioan Tẩy Giả
Chúng tôi không thể nào im lặng trước những gì chúng tôi đã thấy và đã nghe. Chúng tôi thấy cần phải lớn tiếng cao rao, cho tất cả nhân loại biết những việc lạ lùng cả thể mà Chúa đã thực hiện từ 10 năm nay: đó là một điều chính đáng, cần thiết và hữu ích.
Những trang này nói lên lời ngợi khen và tạ ơn của những người đã được lãnh nhận ơn Chúa – cách này hay cách khác – trong suốt thời gian rao giảng Tin Mừng với những phép lạ, dấu chỉ và ơn chữa bệnh kèm theo.
Đây không phải là một cuốn sách, nhưng là một chứng từ. Trước khi được soạn thảo, sách Tin Mừng đã được sống và loan truyền. Qua những dòng chữ này, lời loan báo của người rao giảng Tin Mừng vẫn vang động như nhịp tim đang đập, mà chúng ta có thể cảm nhận được, nhất là chúng ta có thể gặp được chính Tin Mừng là Chúa Yêsu Kitô – Đấng hôm qua và hôm nay vẫn là thế, và hằng sống muôn đời. Chính Ngài là trung tâm của những trang sách này.
Cha EMILIANO TARDIF được sánh như con lừa mang Chúa trên lưng, trong ngày Chúa Nhật Lễ Lá. Ngài được diễm phúc chở Chúa đi khắp năm châu. Như chú lừa ở Betfagé, Ngài đã được choàng tặng vòng hoa như ở Tahiti, có nơi lại bị tù tội và bắt bớ như ở Congo; nhưng điều đáng quan tâm không phải là cái bình sành, mà là chính kho tàng chứa bên trong – tức là Chúa Yêsu Kitô.
Đây không phải là quyển sách dạy kỹ thuật cầu nguyện cho bệnh nhân, nhưng là lời chứng rằng: ngày nay, Chúa vẫn chữa lành các con cái bệnh tật của Ngài; không phải là sách dạy thuật chữa bệnh, mà là quyển sách loan báo Tin Mừng. Đây là một tiếng kêu vang tràn đầy hy vọng của những kẻ dám tin rằng: đối với chính Đức Yêsu – Đấng đã chết trên thập giá, đã sống lại và hiện đang sống – mọi sự đều có thể được. Không lạ gì những việc diệu kỳ Thiên Chúa đã làm, bởi lẽ chính Ngài là Đấng Kỳ Diệu!
Tóm lại, điều lớn nhất mà những trang sách này không cần đến, đó là lời nhập đề.
JOSÉ H. PRADO FLORES
Mexico, 24-06-1984
Lễ Thánh Gioan Tẩy Giả
CHÚA GIÊSU ĐANG SỐNG(Chương I)
Chương I:
BỆNH LAO PHỔI
Năm 1973, tôi là Giám Tỉnh dòng Thừa Sai Thánh Tâm tại Cộng hòa Đôminicana (Trung Mỹ). Tôi đã làm việc cật lực, phung phí rất nhiều sức khoẻ cho nhiệm vụ tại đó suốt 16 năm. Tôi đã mất nhiều ngày giờ lo những công việc vật chất, cất nhà thờ, chủng viện, trung tâm thăng tiến nhân phẩm, việc giáo lý. Tôi mải miết kiếm tiền, để xây dựng nhà cửa và nuôi chủng sinh.
Chúa đã cho phép tôi hoạt động đủ thứ việc như thế, và bởi làm quá sức, tôi đã lâm bệnh ngày 14-06-1973. Trong một buổi họp phong trào Gia đình Công giáo, tôi cảm thấy đau, đau quá! Người ta tức tốc chở tôi vào Trung tâm Y khoa Quốc gia. Tôi đau đớn đến nỗi tưởng không qua được đêm đó. Tôi tưởng là mình sắp chết. Tuy đã từng suy niệm nhiều về sự chết, nhưng chưa bao giờ kinh nghiệm; lần này, tôi đã cảm được và thấy không thích nó chút nào.
Khi xét nghiệm, các bác sĩ đã phát hiện là tôi bị lao phổi ác tính nặng. Thấy mình bệnh nặng như thế, tôi muốn trở về Quebec, Canada – quê hương tôi, nơi mà gia đình tôi đang sống –; nhưng không làm sao được, vì tôi quá yếu. Tôi phải chờ điều trị, bồi dưỡng 15 hôm, để có sức lên đường. Tại Canada, người ta đưa tôi vào Trung tâm Y khoa chuyên môn; ở đây, bác sĩ khám lại để xác định căn bệnh. Trong suốt tháng 07-1973, cứ hết phân tích máu, nước tiểu, xét nghiệm, rồi chiếu điện… Tất cả công việc đó đã chứng minh rõ ràng là: bệnh lao ác tính đã gây nhiều vết lở trầm trọng trong phổi tôi. Để trấn an tôi, người ta bảo rằng: sau một năm điều trị và nghỉ ngơi, tôi có thể về nhà được.
Một hôm, tôi được hai cuộc viếng thăm rất đặc biệt. Trước tiên là một linh mục, chủ nhiệm Tập San Đức Mẹ. Ông ta xin phép chụp hình tôi, để đăng một bài báo với tựa đề: “Làm thế nào sống bệnh tật của mình?”
Ông ta vừa chào tôi ra về, thì 5 giáo dân thuộc nhóm Cầu nguyện Canh Tân Đặc Sủng đến. Tại Cộng Hòa Đôminicana, tôi chế nhạo nhiều “phong trào Canh Tân” này và quả quyết: “Châu Mỹ La Tinh không cần ơn nói tiếng lạ, nhưng cần thăng tiến nhân phẩm”. Thế mà bây giờ, những người này tự nhiên đến đề nghị cầu nguyện cho tôi.
Hai cuộc thăm viếng tiêu biểu cho hai quan điểm hoàn toàn khác nhau: quan điểm thứ nhất muốn tôi chấp nhận cơn bệnh, quan điểm thứ hai muốn tôi được lành bệnh.
Với tư cách linh mục thừa sai, tôi nghĩ rằng từ chối đề nghị của họ không là một gương sáng; nên thật thà mà nói, tôi để họ cầu nguyện cho mình là vì lịch sự hơn vì tin. Tôi không thể nào tin được một lời cầu nguyện suông có thể mang lại sức khoẻ.
Còn họ thì nói với tôi đầy xác tín: “Chúng con làm những gì mà Phúc Âm đã nói: ‘Nhân danh Ta, họ sẽ đặt tay trên bệnh nhân và bệnh nhân sẽ được chữa lành’. Vì thế, chúng con sẽ cầu nguyện và Chúa sẽ chữa cha lành”.
Tức thì, họ đến sát ghế tôi đang ngồi, đặt tay trên tôi. Phần tôi, tôi chưa bao giờ thấy một sự việc như thế cả, và việc đặt tay đó làm tôi bực mình. Ngồi dưới bàn tay của họ, tôi thấy mình kỳ cục quá! Vả lại, tôi còn bực mình vì mấy người đi lại trong hành lang có thể nhìn thấy qua cửa phòng đang mở. Lúc ấy, tôi bảo họ ngưng cầu nguyện và đề nghị:
- Nếu được, chúng ta nên khép cửa lại…
Họ đáp:
- Vâng, thưa cha, được ạ!
Họ đóng cửa lại, nhưng Chúa Yêsu đã lẻn vào phòng rồi. Trong khi họ cầu nguyện, tôi cảm thấy một sức nóng ran trong phổi. Tôi tưởng chừng lại lên cơn đau và tôi sẽ chết ngay. Nhưng chính đó là sức nóng tình yêu của Chúa Yêsu đang chạm đến tôi, và đang chữa lành hai buồng phổi bệnh hoạn của tôi: “Ta sẽ làm cho con nên chứng nhân Tình Yêu của Ta”. Chúa Yêsu Hằng Sống đang đến ban cho tôi sự sống, không những cho buồng phổi, mà còn cho chức linh mục của tôi, cho cả con người của tôi.
Ba hay bốn hôm sau, tôi hoàn toàn bình phục. Tôi ăn ngon, ngủ ngon và không còn đau đớn gì cả, đúng lúc các bác sĩ bắt đầu điều trị cho tôi. Nhưng lạ thay, không một thứ thuốc nào hợp với căn bệnh mà họ đã dò định trước đấy. Vì thế, họ thử cả những thuốc chích đặc biệt dùng cho những người có cơ thể không bình thường, nhưng vẫn không có công hiệu nào.
Tôi khoẻ hẳn và muốn trở về nhà, nhưng người ta bắt buộc tôi ở lại bệnh viện, để các bác sĩ có thể rà lại toàn bộ cơ thế tôi xem căn bệnh lao đã biến đâu mất, khiến họ không sao tìm ra.
Đến cuối tháng, sau nhiều lần xét nghiệm, vị bác sĩ trưởng nói với tôi:
- Cha về nhà đi! Cha hoàn toàn bình phục rồi. Nhưng việc này thật là ngược với những lý thuyết y học của chúng tôi. Chúng tôi không biết sự gì đã xảy ra nơi cha.
Sau đó, ông nhún vai và nói tiếp:
- Cha là trường hợp độc nhất của bệnh viện này.
Tôi cười đáp:
- Ngay cả trong nhà dòng, trường hợp của tôi chắc cũng thế.
Tôi xuất viện không toa bác sĩ, không thuốc uống, thuốc chích gì cả. Lúc trở về nhà, tôi chỉ còn 50kg. Để điều trị, bệnh viện bắt tôi nhịn đói muốn chết luôn!
15 ngày sau, Tập San Đức Mẹ ra số thứ 8, trên trang 5 có đăng hình tôi chụp tại bệnh viện: tôi ngồi trên ghế bành có gắn ống dò bệnh, nét mặt buồn thiu, cặp mắt lo nghĩ. Bên dưới hình viết: “Bệnh nhân cần tập sống với căn bệnh, làm quen với những lời úp mở, những câu hỏi tọc mạch… và những ánh mắt khác thường của bạn bè”… Nhưng giờ đây, sức khoẻ của tôi đã làm cho bài báo đó ra vô nghĩa.
Chúa đã chữa tôi lành. Dù lòng tin của tôi lúc ấy quá bé nhỏ, nhỏ như hạt cải; nhưng Thiên Chúa lại quá vĩ đại, Người không xá kể gì đến sự nhỏ bé của tôi. Thiên Chúa chúng ta là thế! Vì nếu Người đối xử theo công trạng của ta, thì Người đâu phải là Thiên Chúa!
Theo cách đó, tôi cảm nhận nơi bản thân bài học căn bản đầu tiên cho tác vụ chữa bệnh của tôi sau này, là Chúa chữa chúng ta theo lòng tin chúng ta hiện có. Chỉ thế thôi! Ngài không đòi hỏi gì hơn!
Ngày 15 tháng 9, lần đầu tiên, tôi dự buổi cầu nguyện Canh Tân Đặc Sủng. Tôi không hề biết gì về việc này cả, nhưng tôi đến dự vì đã được lành bệnh, và chính những người đã cầu nguyện yêu cầu tôi đến để làm chứng điều đó.
Trong tháng 9 này, tôi bắt đầu làm việc lại đôi chút. Tôi đã biên thư xin Bề Trên cho phép tôi được dành trọn năm đó – mà lẽ ra phải nằm viện – để đi học về Canh Tân Đặc Sủng tại Canada và Hoa Kỳ. Tôi được phép và đã đến các trung tâm quan trọng nhất tại Quebec, Pittsburg, Notre Dame, Arizona.
Tôi còn nhớ, một hôm ở Los Angeles, đang lúc dâng lễ trước sự hiện diện của một người bạn và một đứa cháu, sau Phúc Âm đọc bằng tiếng Pháp, tôi muốn giảng, nhưng một điều lạ lùng đã xảy ra cho tôi. Tôi cảm thấy gò má mình nặng ra, và tôi bắt đầu nói những tiếng mà chính tôi cũng không hiểu. Đó không phải là tiếng Pháp, cũng không phải tiếng Anh, hoặc Tây Ban Nha. Khi việc đó ngưng lại, tôi quá ngạc nhiên thốt lên:
- Có phải bác đã được ơn nói tiếng lạ không?
Cháu tôi đáp lại:
- Đúng rồi, bác ạ! Bác đã nói tiếng lạ đấy!
Vậy mà tôi đã từng chế giễu ơn nói tiếng lạ! Nay Chúa lại ban cho tôi ơn ấy, ngay lúc tôi sắp giảng. Thế là tôi đã khám phá được ơn huệ tốt đẹp này của Chúa.
BỆNH LAO PHỔI
Năm 1973, tôi là Giám Tỉnh dòng Thừa Sai Thánh Tâm tại Cộng hòa Đôminicana (Trung Mỹ). Tôi đã làm việc cật lực, phung phí rất nhiều sức khoẻ cho nhiệm vụ tại đó suốt 16 năm. Tôi đã mất nhiều ngày giờ lo những công việc vật chất, cất nhà thờ, chủng viện, trung tâm thăng tiến nhân phẩm, việc giáo lý. Tôi mải miết kiếm tiền, để xây dựng nhà cửa và nuôi chủng sinh.
Chúa đã cho phép tôi hoạt động đủ thứ việc như thế, và bởi làm quá sức, tôi đã lâm bệnh ngày 14-06-1973. Trong một buổi họp phong trào Gia đình Công giáo, tôi cảm thấy đau, đau quá! Người ta tức tốc chở tôi vào Trung tâm Y khoa Quốc gia. Tôi đau đớn đến nỗi tưởng không qua được đêm đó. Tôi tưởng là mình sắp chết. Tuy đã từng suy niệm nhiều về sự chết, nhưng chưa bao giờ kinh nghiệm; lần này, tôi đã cảm được và thấy không thích nó chút nào.
Khi xét nghiệm, các bác sĩ đã phát hiện là tôi bị lao phổi ác tính nặng. Thấy mình bệnh nặng như thế, tôi muốn trở về Quebec, Canada – quê hương tôi, nơi mà gia đình tôi đang sống –; nhưng không làm sao được, vì tôi quá yếu. Tôi phải chờ điều trị, bồi dưỡng 15 hôm, để có sức lên đường. Tại Canada, người ta đưa tôi vào Trung tâm Y khoa chuyên môn; ở đây, bác sĩ khám lại để xác định căn bệnh. Trong suốt tháng 07-1973, cứ hết phân tích máu, nước tiểu, xét nghiệm, rồi chiếu điện… Tất cả công việc đó đã chứng minh rõ ràng là: bệnh lao ác tính đã gây nhiều vết lở trầm trọng trong phổi tôi. Để trấn an tôi, người ta bảo rằng: sau một năm điều trị và nghỉ ngơi, tôi có thể về nhà được.
Một hôm, tôi được hai cuộc viếng thăm rất đặc biệt. Trước tiên là một linh mục, chủ nhiệm Tập San Đức Mẹ. Ông ta xin phép chụp hình tôi, để đăng một bài báo với tựa đề: “Làm thế nào sống bệnh tật của mình?”
Ông ta vừa chào tôi ra về, thì 5 giáo dân thuộc nhóm Cầu nguyện Canh Tân Đặc Sủng đến. Tại Cộng Hòa Đôminicana, tôi chế nhạo nhiều “phong trào Canh Tân” này và quả quyết: “Châu Mỹ La Tinh không cần ơn nói tiếng lạ, nhưng cần thăng tiến nhân phẩm”. Thế mà bây giờ, những người này tự nhiên đến đề nghị cầu nguyện cho tôi.
Hai cuộc thăm viếng tiêu biểu cho hai quan điểm hoàn toàn khác nhau: quan điểm thứ nhất muốn tôi chấp nhận cơn bệnh, quan điểm thứ hai muốn tôi được lành bệnh.
Với tư cách linh mục thừa sai, tôi nghĩ rằng từ chối đề nghị của họ không là một gương sáng; nên thật thà mà nói, tôi để họ cầu nguyện cho mình là vì lịch sự hơn vì tin. Tôi không thể nào tin được một lời cầu nguyện suông có thể mang lại sức khoẻ.
Còn họ thì nói với tôi đầy xác tín: “Chúng con làm những gì mà Phúc Âm đã nói: ‘Nhân danh Ta, họ sẽ đặt tay trên bệnh nhân và bệnh nhân sẽ được chữa lành’. Vì thế, chúng con sẽ cầu nguyện và Chúa sẽ chữa cha lành”.
Tức thì, họ đến sát ghế tôi đang ngồi, đặt tay trên tôi. Phần tôi, tôi chưa bao giờ thấy một sự việc như thế cả, và việc đặt tay đó làm tôi bực mình. Ngồi dưới bàn tay của họ, tôi thấy mình kỳ cục quá! Vả lại, tôi còn bực mình vì mấy người đi lại trong hành lang có thể nhìn thấy qua cửa phòng đang mở. Lúc ấy, tôi bảo họ ngưng cầu nguyện và đề nghị:
- Nếu được, chúng ta nên khép cửa lại…
Họ đáp:
- Vâng, thưa cha, được ạ!
Họ đóng cửa lại, nhưng Chúa Yêsu đã lẻn vào phòng rồi. Trong khi họ cầu nguyện, tôi cảm thấy một sức nóng ran trong phổi. Tôi tưởng chừng lại lên cơn đau và tôi sẽ chết ngay. Nhưng chính đó là sức nóng tình yêu của Chúa Yêsu đang chạm đến tôi, và đang chữa lành hai buồng phổi bệnh hoạn của tôi: “Ta sẽ làm cho con nên chứng nhân Tình Yêu của Ta”. Chúa Yêsu Hằng Sống đang đến ban cho tôi sự sống, không những cho buồng phổi, mà còn cho chức linh mục của tôi, cho cả con người của tôi.
Ba hay bốn hôm sau, tôi hoàn toàn bình phục. Tôi ăn ngon, ngủ ngon và không còn đau đớn gì cả, đúng lúc các bác sĩ bắt đầu điều trị cho tôi. Nhưng lạ thay, không một thứ thuốc nào hợp với căn bệnh mà họ đã dò định trước đấy. Vì thế, họ thử cả những thuốc chích đặc biệt dùng cho những người có cơ thể không bình thường, nhưng vẫn không có công hiệu nào.
Tôi khoẻ hẳn và muốn trở về nhà, nhưng người ta bắt buộc tôi ở lại bệnh viện, để các bác sĩ có thể rà lại toàn bộ cơ thế tôi xem căn bệnh lao đã biến đâu mất, khiến họ không sao tìm ra.
Đến cuối tháng, sau nhiều lần xét nghiệm, vị bác sĩ trưởng nói với tôi:
- Cha về nhà đi! Cha hoàn toàn bình phục rồi. Nhưng việc này thật là ngược với những lý thuyết y học của chúng tôi. Chúng tôi không biết sự gì đã xảy ra nơi cha.
Sau đó, ông nhún vai và nói tiếp:
- Cha là trường hợp độc nhất của bệnh viện này.
Tôi cười đáp:
- Ngay cả trong nhà dòng, trường hợp của tôi chắc cũng thế.
Tôi xuất viện không toa bác sĩ, không thuốc uống, thuốc chích gì cả. Lúc trở về nhà, tôi chỉ còn 50kg. Để điều trị, bệnh viện bắt tôi nhịn đói muốn chết luôn!
15 ngày sau, Tập San Đức Mẹ ra số thứ 8, trên trang 5 có đăng hình tôi chụp tại bệnh viện: tôi ngồi trên ghế bành có gắn ống dò bệnh, nét mặt buồn thiu, cặp mắt lo nghĩ. Bên dưới hình viết: “Bệnh nhân cần tập sống với căn bệnh, làm quen với những lời úp mở, những câu hỏi tọc mạch… và những ánh mắt khác thường của bạn bè”… Nhưng giờ đây, sức khoẻ của tôi đã làm cho bài báo đó ra vô nghĩa.
Chúa đã chữa tôi lành. Dù lòng tin của tôi lúc ấy quá bé nhỏ, nhỏ như hạt cải; nhưng Thiên Chúa lại quá vĩ đại, Người không xá kể gì đến sự nhỏ bé của tôi. Thiên Chúa chúng ta là thế! Vì nếu Người đối xử theo công trạng của ta, thì Người đâu phải là Thiên Chúa!
Theo cách đó, tôi cảm nhận nơi bản thân bài học căn bản đầu tiên cho tác vụ chữa bệnh của tôi sau này, là Chúa chữa chúng ta theo lòng tin chúng ta hiện có. Chỉ thế thôi! Ngài không đòi hỏi gì hơn!
Ngày 15 tháng 9, lần đầu tiên, tôi dự buổi cầu nguyện Canh Tân Đặc Sủng. Tôi không hề biết gì về việc này cả, nhưng tôi đến dự vì đã được lành bệnh, và chính những người đã cầu nguyện yêu cầu tôi đến để làm chứng điều đó.
Trong tháng 9 này, tôi bắt đầu làm việc lại đôi chút. Tôi đã biên thư xin Bề Trên cho phép tôi được dành trọn năm đó – mà lẽ ra phải nằm viện – để đi học về Canh Tân Đặc Sủng tại Canada và Hoa Kỳ. Tôi được phép và đã đến các trung tâm quan trọng nhất tại Quebec, Pittsburg, Notre Dame, Arizona.
Tôi còn nhớ, một hôm ở Los Angeles, đang lúc dâng lễ trước sự hiện diện của một người bạn và một đứa cháu, sau Phúc Âm đọc bằng tiếng Pháp, tôi muốn giảng, nhưng một điều lạ lùng đã xảy ra cho tôi. Tôi cảm thấy gò má mình nặng ra, và tôi bắt đầu nói những tiếng mà chính tôi cũng không hiểu. Đó không phải là tiếng Pháp, cũng không phải tiếng Anh, hoặc Tây Ban Nha. Khi việc đó ngưng lại, tôi quá ngạc nhiên thốt lên:
- Có phải bác đã được ơn nói tiếng lạ không?
Cháu tôi đáp lại:
- Đúng rồi, bác ạ! Bác đã nói tiếng lạ đấy!
Vậy mà tôi đã từng chế giễu ơn nói tiếng lạ! Nay Chúa lại ban cho tôi ơn ấy, ngay lúc tôi sắp giảng. Thế là tôi đã khám phá được ơn huệ tốt đẹp này của Chúa.
Blog Archive
Labels
- Archangles (4)
- Breviary (44)
- CHÚA GIÊSU ĐANG SỐNG (15)
- Dụ ngôn của Chúa (1)
- Film về Chúa (1)
- Hong An Thien Chua (13)
- Jesus Christ (9)
- linh hồn nơi luyện ngục (72)
- Lời chứng (42)
- Lyrics (1)
- Message (39)
- Mother of God (13)
- Nhà thờ (1)
- Niềm Tin Minh Hoạ (6)
- Phép lạ (21)
- Rosary (18)
- Saints (8)
- Songs (4)
- Thánh địa (1)
- The meaning (2)
- Tiên tri (1)
- Tiếng thì thầm (1)
- Truyện hay (8)