Chương II:
NAGUA và PIMENTEL
I. NAGUA
Sau năm ấy, lẽ ra phải nằm bệnh viện, tôi trở về Cộng Hòa Đôminicana. Bề Trên sai tôi đến một xứ đạo thuộc tỉnh Nagua.
Đến nơi, tôi mời lối 40 người lại, để làm chứng cho họ biết việc tôi được lành bệnh. Tôi nhớ là đã mời một số bệnh nhân đến ngồi phía trước, để cầu nguyện cho họ. Tôi ngạc nhiên thấy số người bệnh đông hơn người khoẻ. Tối hôm đó, Chúa chữa lành 2 người. Cả nhóm dậy lên nỗi vui mừng, và những người được lành bệnh đi làm chứng khắp nơi. Cách khiêm tốn như thế, bắt đầu một câu chuyện mà chúng ta không ngờ đem lại kết quả quá kỳ diệu.
Nhờ việc Chúa chữa lành bệnh tật, nhóm chúng tôi trở nên như Bàn Tiệc Nước Trời: những kẻ được mời là què, đui, câm, điếc, và nghèo khổ.
Tuần này qua tuần kia, Chúa đã chữa lành mọi bệnh tật. Vào tháng 8, Chúa chữa lành bà Sara khỏi ung thư tử cung. Bị các bác sĩ chê, bà xuất viện về nhà chờ chết. Người ta dẫn bà đến với nhóm, và trong lúc cầu nguyện cho bệnh nhân, bà cảm thấy nơi bụng nóng như đốt, và bà bắt đầu khóc. Dần dần, bà nhận ra là căn bệnh đã biến mất. 15 ngày sau, bà được hoàn toàn bình phục. Bà trở lại với nhóm, đem theo khăn liệm và đồ an táng, mà con cái đã sắm sẵn để chôn bà.
Dân chúng tới mỗi lúc một đông, mọi người ca hát, vui mừng và tưng bừng ngợi khen Thiên Chúa. Thấy các bệnh nhân được chữa lành và những dấu lạ, người ta khóc nức nở: khóc vì hạnh phúc, và người ta kể lại cho mọi người nghe những sự lạ đang xảy ra trong xứ đạo.
Chúa đã dùng lời trí tri mà dạy rằng:
“Ta, Ta làm việc trong an bình. Ta ban bình an cho anh em. Hãy nên sứ giả hòa bình! Ta bắt đầu đổ Thánh Thần Ta trên các ngươi. Đó là ngọn lửa thiêu sẽ lan tràn khắp phố phường. Hãy mở mắt và các ngươi sẽ thấy dấu lạ điềm thiêng, mà nhiều người muốn được thấy lại không thấy! Chính Ta nói như thế và Ta sẽ làm.”
Chắc chắn, đây là công trình của Chúa. Rất nhiều phép lạ luôn xảy ra, tôi không thể kể hết. Những đôi vợ chồng rối đến chịu Phép Hôn Phối, những bạn trẻ thoát khỏi tật nghiền ma túy và rượu. Đó là mẻ cá lạ lùng. Chúa đã cho cá vào đầy lưới, đến nỗi tưởng chừng như chìm ghe.
Chúa Yêsu đang giải thoát dân Ngài khỏi xiềng xích nô lệ. Có những bạn trẻ trước đây không còn thiết tha với Giáo Hội cũng như với đức tin, bây giờ bắt đầu tuyên xưng Chúa Yêsu là Đấng giải phóng họ.
Trong một kỳ tĩnh tâm ở xứ đạo, chúng tôi loan báo Tin Mừng về Chúa Yêsu, và sau đó, dâng Thánh Lễ cầu nguyện cho bệnh nhân. Lời thông tri đầu tiên mà Chúa ban cho tôi là:
- Ở đây có một phụ nữ đang được chữa bệnh ung thư. Bà ấy đang thấy nóng như đốt ở bụng.
Tôi tiếp tục cầu nguyện và nói nhiều lời trí tri khác, được xác minh bởi những chứng tá. Nhưng ngay lúc đó, không ai xác minh lời trí tri đầu tiên này cả.
Hôm sau, có một phụ nữ đến trước máy phóng thanh và nói với mọi người:
- Có lẽ các bạn lấy làm ngạc nhiên khi thấy tôi đến đây. Tôi là một kẻ tội lỗi, một gái điếm. Từ nhiều năm nay, tôi đã hành nghề mãi dâm. Hôm qua, tôi có đến đây dự lễ cầu nguyện cho bệnh nhân, nhưng không dám vào nhà thờ vì xấu hổ; tôi bèn đứng ở sau hàng rào. Tôi bị ung thư, đã 2 lần mổ, nhưng không chặn được bệnh. Đến khi linh mục lên tiếng báo có một người đang được chữa bệnh ung thư, tôi liền nghĩ đó chính là tôi.
Chúa Yêsu đã chữa chị không chỉ khỏi ung thư thể xác, mà còn cả ung thư linh hồn. Chị ta đã hối cải, và ngày hôm sau chị đến rước lễ.
Khi thấy chị rước lễ với niềm vui khôn tả và khuôn mặt đầm đìa nước mắt vì hạnh phúc, tôi liên tưởng ngày trở về của đứa con hoang đàng được cha thết đãi tiệc béo. Chị ấy rước Chiên Thiên Chúa – Đấng xóa tội lỗi trần gian – đến tẩy sạch linh hồn và đổi mới đời sống chị. Sau đó, chị trở về nhà chứa, khóc lóc vui mừng kể lại cho các bạn biết về việc Chúa đã làm cho chị:
- Tôi không đến để bảo các bạn từ bỏ lối sống này, tôi chỉ muốn nói cho các bạn biết về Người Bạn Yêsu của tôi: Ngài đã chuộc mạng tôi và biến đổi đời tôi.
Chị kể lại việc Chúa chữa chị lành bệnh và việc chị ăn năn trở lại. Sau đó, chị ta xin phép lập một nhóm cầu nguyện tại nhà chứa, và cứ mỗi thứ hai, họ đóng cửa không tiếp khách, để mở tâm hồn ra đón Chúa Yêsu. Ở đây, họ cầu nguyện, đọc Lời Chúa và ca hát.
Chúa chưa kết thúc công việc của Ngài ở đấy. Năm sau, một cuộc tĩnh tâm được tổ chức cho 47 cô gái điếm trong thành phố. Chính ở đấy, tôi thấy Chúa Yêsu biểu lộ tình thương xót của Ngài: người ta hối cải, ăn năn trở lại và xưng thú tội lỗi. 27 cô gái đã bỏ đường cũ, và theo tin tức mới đây, 21 cô vẫn bền đỗ trong đường lối Chúa, vài cô đã trở thành giáo lý viên, mấy cô khác thành người hướng dẫn những nhóm cầu nguyện, làm chứng về Tình yêu hay thương xót của Chúa đã biến đổi họ.
Trong số 21 nhà chứa tại đường Mariano-Perez, chỉ có 4 nhà còn hoạt động. Các chị em trong nhóm cầu nguyện đã đến đó, và Chúa đã hoán cải những nhà đó.
Cũng phải nhắc lại đây trường hợp của một cô gái trong số các phụ nữ ấy, mà Chúa Yêsu đã bảo là họ sẽ vào Nước Thiên Chúa trước các ký lục và biệt phái.
Cô Diane đã được tình Chúa thúc bách, và cô đã dâng cả cuộc đời cho Chúa. Tuy vậy, cuộc hoán cải của cô rất chậm và chua xót. Cô đã có lần tái phạm vì cần tiền. Khi lìa xa Chúa, Chúa đã nói với cô:
- Diane, ai theo Ta sẽ đi trong ánh sáng và sẽ không thiếu thốn gì.
Cô ấy đã hối cải và trở lại với Chúa. Cô trở thành giáo lý viên, và ngày nay, trong các buổi tĩnh tâm, cô làm chứng cách hăng say về lòng thương xót của Chúa. Cô trở thành đoàn viên của nhóm Rao giảng Tin Mừng, và nhiều linh mục mong muốn có một sức mạnh như cô, để cao rao sức sống mới trong Đức Yêsu Kitô.
Thống kê chính thức cho biết, tại Nagua, trong số 500 nhà chứa, có hơn 80% đã đóng cửa. Dù chưa trở lại hết, nhưng tất cả các cô đã thấm nhiễm sứ điệp “Chúa-Yêsu-đang-sống”. Nhiều nhà chứa trước kia đã phục vụ cho tội lỗi và ích kỷ, thì nay đã trở thành nhà của nhóm cầu nguyện. Sự thay đổi rõ rệt đến nỗi người ta phải nói:
- Nagua trước kia là thành phố mãi dâm, nay là thành phố cầu nguyện.
Hiện nay, không con đường nào ở Nagua lại không có nhóm cầu nguyện. Đó là những nhóm Rao giảng Tin Mừng, đem mỗi cá nhân đến gặp gỡ Chúa-Yêsu-đang-sống.
Trường hợp thành phố Nagua cho chúng ta hiểu thế nào là Đặc sủng Rao giảng Tin Mừng. Đặc sủng không phải là đồ trang trí tình cờ, nhưng thực sự là máng chuyển lời rao giảng.
Đối với những người phủ nhận đặc sủng và cho là không cần thiết,(*) tôi chỉ xin nhắc lại là thành phố Nagua đã được Phúc Âm hóa, và đã rửa sạch tiếng xấu là “thành phố mãi dâm”, nhờ một buổi tĩnh tâm dành cho gái điếm. Buổi tĩnh tâm này đã mang lại kết quả nhờ một phụ nữ, như Madalena đã theo Chúa Yêsu và sau đó đã nên chứng tá. Tại sao? Thưa vì cô ta đã được chữa lành bệnh ung thư (nhờ đặc sủng chữa bệnh).
Một việc lành bệnh thể lý tầm thường đã dẫn đến một biến đổi xã hội. Cũng vậy, Nước Thiên Chúa được thiết lập qua những biến cố nhỏ mọn, tầm thường như hạt cải; nhưng một khi đâm chồi nảy lộc, sẽ mang lại hoa trái dồi dào.
Hỡi bạn, chúng ta là ai mà dám khinh thường đường lối của Thiên Chúa?
II. PIMENTEL
Tại Nagua, tôi đang sung sướng công tác với các nhóm cầu nguyện, nhưng Thánh Thần lại chuẩn bị cho tôi một bất ngờ lớn. Quả thật, đường lối Thiên Chúa khác với đường lối chúng ta (Is 55,8), nhưng tốt đẹp trổi xa điều chúng ta có thể cầu xin hay tưởng nghĩ (Eph 3,20).
Cha Giám Tỉnh xin tôi tạm thay cho một linh mục đi nghỉ hè. Phải bỏ Nagua đi nơi khác, thực thà mà nói, đó là một điều đau xót cho tôi. Chúng ta luôn muốn được an phận với những gì mình đang có. Nhưng đó là điều làm cản trở tác động bất ngờ của Thần Khí khi Ngài muốn ra uy. Sống trong Thánh Thần là từ bỏ mình, không chiếm hữu cho mình những gì Thiên Chúa đã khấng ban cho ta, ngay cả điều mà chúng ta gọi là “Thừa tác vụ”. Chúng ta được gọi sống đời lữ khách dưới các lều tạm, luôn sẵn sàng dấn bước vào cuộc hành trình không hẹn ngày về. Chính lúc chúng ta không có gì cả, lại là lúc chúng ta có khả năng được tất cả.
Ngày 10-06-1974, tôi đến nhiệm sở mới: Pimentel, một làng dễ thương ở ngay trung tâm đất nước, xung quanh có đồng bằng, dồi dào thóc lúa, khoai tây, ca cao và cam, nhờ nguồn nước sông Cuaba. Chỉ có một con đường đất băng ngang qua làng, lừa ngựa thường xuyên qua lại, thỉnh thoảng mới có một chiếc xe hi hoặc xe buýt. Lá quốc kỳ phất phới trên tòa nhà thị chính, quanh đó là công viên với những vòm cây chà là và xiêm gai. Phía bên kia tòa thị chính là xứ đạo Thánh Gioan Tẩy Giả – một cái tên gợi lên sứ vụ của tôi cũng như bất cứ ai đi rao giảng Tin Mừng: đó là vai trò tiền hô dọn đường cho Chúa Cứu Thế. Thần Khí Chúa đã dẫn tôi đến đó, để làm chứng cho ánh sáng của Chúa Yêsu Kitô Phục Sinh.
Vừa tới nơi, tôi vào nhà cha sở, ngài đã sẵn sàng vali để lên đường. Tôi chỉ xin cha cho phép tổ chức một nhóm Canh Tân nhỏ.
Chuyện này làm cha sở bực mình, ngài sợ! Không dám từ chối, bởi lẽ tôi đến đây là để thế chân cho ngài đi nghỉ hè, nhưng ngài nói:
- Thôi được, cha cứ lập nhóm, nhưng đừng có bày chuyện đặc sủng.
- Vâng! Nhưng, thưa cha, đặc sủng không do tôi ban, mà là do Thánh Thần. Nếu Thánh Thần muốn ban đặc sủng cho giáo dân của cha, tôi làm gì được nào?
Cha sở đáp và chào từ giã:
- Thôi, cha muốn làm gì thì làm!
Hè năm ấy nóng bức, nhưng một điềm báo Thần Khí Chúa sẽ đổ xuống trên chúng tôi. Ai không tin Chúa-Yêsu-đang-sống hiện ở cùng chúng tôi, và ngày nay, Ngài còn làm những việc lạ lùng, thì đừng đọc những chuyện sau đây, vì với họ, đó là chuyện khó tin.
1. Buổi họp đầu tiên:
Trong Thánh Lễ Chúa Nhật đầu tiên, tôi mời mọi người đến dự buổi giảng về Canh Tân Đặc Sủng, và hứa sẽ kể lại việc lành bệnh của tôi. Hôm ấy, có 200 người đến dự. Với lòng tin, họ đã mang đến một người bại liệt nằm trên băng ca. Bệnh nhân này bị gãy xương sống và đã nằm liệt 5 năm rưỡi.
Khi thấy họ mang bệnh nhân đến, tôi phải nhận là họ bạo gan thật. Hành động này nhắc tôi nhớ chuyện 4 người đã khiêng người bạn bất toại đến với Chúa Yêsu (Mc 2,1-12). Chúng tôi cầu nguyện cho anh ta, và kêu xin Chúa – cậy vì quyền lực các dấu đinh của Ngài – hãy chữa lành người bại liệt này. Người bệnh bắt đầu toát mồ hôi và run rẩy. Tôi liền nhớ lại, khi được Chúa chữa, tôi cũng thấy nóng ran cả người. Tôi nói với anh:
- Chúa đang chữa anh, nhân danh Chúa Yêsu, hãy đứng lên!
Tôi cầm lấy tay anh và anh nhìn tôi sững sờ. Anh ta cố gắng đứng dậy và bắt đầu bước đi chầm chậm. Tôi nói:
- Nhân danh Chúa Yêsu, hãy tiếp tục bước đi! Chúa đang chữa anh.
Anh ta bước từng bước một đến gần Thánh Thể, rồi òa khóc mà tạ ơn Chúa. Mọi người ngợi khen Chúa, trong khi người được chữa lành bước ra giữa cộng đoàn, vác băng ca của mình. Ngày hôm đó, có 10 người khác được Chúa Yêsu Kitô thương chữa lành.
Quả thực, người ta khao khát cầu nguyện dường nào! Họ đến gần chúng tôi và yêu cầu dạy họ cầu nguyện. Như Chúa Yêsu, chúng tôi phải dạy họ bằng cách cùng cầu nguyện với họ. Chúng tôi không thể bỏ lỡ một cơ hội tuyệt diệu như thế! Nếu ta nói về Chúa ít hơn và nói với Ngài nhiều hơn, thì trần gian sẽ được thay đổi mau biết mấy! Đúng thế! Chúa thích chúng ta nói về Ngài, nhưng hơn thế nữa, Ngài thích chúng ta nói với Ngài.
2. Buổi họp thứ hai:
Thứ tư sau, có 3.000 người kéo đến; bởi đó, chúng tôi phải họp ngoài đường, vì nhà thờ không đủ chỗ chứa. Do quá đông như vậy, chúng tôi không thể tụ thành một nhóm cầu nguyện được, tôi liền giảng nửa giờ trước khi dâng Thánh Lễ cầu cho bệnh nhân.
Trong giờ cầu nguyện, một phụ nữ tên Mercedes Dominguez, mù đã 10 năm, cảm thấy lạnh buốt ở đôi mắt. Dominguez trở về nhà, rất xúc động nói cho mọi người biết là bà đã thấy được một chút. Hôm sau, lúc thức dậy, bà được hoàn toàn sáng mắt. Chúa đã mở mắt cho bà, và bà đã mở miệng để làm chứng khắp nơi, về việc bà được lành bệnh một cách kỳ diệu, làm cho dân làng xúc động mãnh liệt.
3. Buổi họp thứ ba:
Các bạn thử tưởng tượng xem sự gì đã xảy ra trong tuần lễ thứ ba này? Chúng tôi ra công viên, ngay giữa trời, để ngợi khen vinh quang Chúa. Như thuở xưa, Chúa Yêsu – Đấng-đang-sống – cũng đến trong làng chúng tôi. Công viên trở nên giống hồ Bêthesđa xưa: “với đầy bệnh nhân mù, què và bại liệt, đang chờ được chữa lành” (Ga 5,1-2).
Bêthesđa có nghĩa là “Nhà xót thương”. Pimentel – một làng nhỏ nhất – đã trở nên nơi Chúa chọn, để tỏ bày lòng thương xót của Ngài. Tác vụ chữa bệnh là tác vụ của lòng thương xót của Thiên Chúa. Đêm hôm đó, có hơn 7.000 người dự. Như tuần trước, chúng tôi rao giảng tình yêu của Chúa Yêsu, Ngài đang sống trong Giáo Hội, và tiếp tục hành động qua những dấu lạ và kỳ công. Chúng tôi dâng Thánh Lễ và Chúa lại chữa lành các bệnh nhân. Thật là ngoài sức tưởng tượng! Như xưa tại tiệc cưới Cana, Chúa đã biến nước thành rượu, nhiều đến nỗi còn có thể tổ chức thêm những tiệc cưới khác. Khi chúng ta xin Chúa điều gì, thì Ngài cũng ban cho, vì quyền năng cũng như tình yêu của Ngài không có giới hạn. Ngài không chỉ chữa lành cho 2, 3 người, nhưng cho một số đông vô kể.
Cảnh sát rất bực bội, vì phải làm việc ngoài giờ để giữ trật tự cho số đông dân chúng đi lại, trong một làng quá bé nhỏ như thế. Cảnh sát đã xin Trưởng ty dẹp các cuộc hội họp này đi, ông ta giang đôi tay ra, cười và trả lời:
- Tôi cũng vậy, cũng đã muốn dẹp chúng đi. Nhưng khốn nỗi, chính vợ tôi đã được lành bệnh, từ một trong những buổi nhóm họp này.
Bà vợ ông ta bị bệnh đã 12 năm. Tình yêu Chúa đã chạm đến bà. Vài ngày sau, hai ông bà đã đến chịu phép Hôn phối.
Chúa đã tiên liệu tất cả, thay vì cấm họp, cảnh sát đã tăng cường cho chúng tôi 18 nhân viên, để ổn định trật tự lưu thông trong buổi họp kỳ tới.
4. Buổi họp thứ tư:
Ngày 9 tháng 7, kỷ niệm ngày tôi trở về Cộng Hòa Đôminicana, sau khi được Chúa chữa bệnh. Từ 9 giờ sáng, dân chúng khắp nơi trong nước tuôn đến bằng xe lớn, xe nhỏ. Ngay cả mấy bác tài xế taxi cũng quảng cáo giùm chúng tôi, vì trong vụ này, họ cũng có lợi. Chiều hôm đó, có khoảng 20.000 người đến họp cầu nguyện. Số người quá đông, đến nỗi chúng tôi phải leo lên mái nhà đặt bàn thờ và loa phóng thanh trên đó.
Các bạn có biết Chúa đã “trả thù” cách nào đối với những cảnh sát định dẹp cuộc nhóm họp không? Chính đêm hôm đó, Chúa chữa lành cho một nhân viên bị xuất huyết mạch máu não, nên bị bán thân bất toại. Bắt đầu từ lúc đó, tất cả nhân viên cảnh sát đều đứng về phía chúng tôi. Quả thật, Chúa giải quyết các vấn đề cách êm đẹp hơn chúng ta biết bao!
Một bà nọ, trong làng ai cũng biết là bị điếc từ 16 năm, nay bà được khỏi hẳn. Thoạt đầu, bà nghe ù ù trong tai, liền đó, bà mới nhận ra là đã nghe rõ bài giảng. Hôm sau, gặp bà ấy đi chợ, một người làm công nói với bạn:
- Bà điếc đến đấy, chúng ta thử nhép miệng nhưng không phát âm, để trêu bà ấy chơi!
Nhưng bà đã nghe họ nói và tươi cười đáp:
- Không, thưa các anh, tôi không còn điếc đâu! Chúa Kitô đã chữa tôi chiều hôm qua.
Như thế, bà ta không chỉ minh chứng là được lành bệnh, nhưng còn làm chứng cho quyền năng Thiên Chúa nữa.
Một người đàn ông chỉ bò đi bằng tứ chi cũng được chữa khỏi ngày hôm đó. Quá nhiều sự lạ và ơn lành bệnh đã xảy ra! Chúng tôi được chứng kiến mọi sự. Mắt thấy, tai nghe trực tiếp và sống động những điều được kể trong Phúc Âm. Chính Chúa-Yêsu-Phục-Sinh đang đi đứng giữa chúng ta và đang cứu thoát dân Ngài.
Đêm hôm đó, theo các lời chứng được ghi nhận, đã có hơn 100 người được chữa lành.
5. Buổi họp thứ năm:
Đến buổi nhóm họp thứ năm, thiết bị âm thanh của chúng tôi không thể đủ mạnh để nghe. Cảnh sát làm một bài tính số người trên mét vuông: có đến 42.000 người, đến từ Puerto Rico, Haiti và từ tất cả các xứ đạo trong nước. Các mái nhà đông nghẹt người, xe buýt, xa tải, xe con choán chật con đường làng.
Sở dĩ người ta đến đông như vậy, chỉ vì Chúa Yêsu chưa thay đổi phương pháp làm việc. Đơn giản thế thôi! Phần chúng ta, chúng ta hãy lo tìm phương phápp phục vụ hữu hiệu hơn, phù hợp với thời đại hơn. Còn Chúa, Ngài cứ tiếp tục lối làm việc của Ngài: Ngài đi khắp vùng Galilê, chữa lành mọi bệnh tật, đoàn lũ dân chúng theo Ngài và được Ngài rao giảng Lời Cứu Rỗi (Lc 6,17-18). Ngày nay, vẫn vậy: Chúa chữa người bệnh tật, và hằng ngàn, hằng vạn người tụ đến, và chúng tôi rao truyền Nước Thiên Chúa cho họ. Đơn giản, đó là Phúc Âm đang được tái diễn.
Tôi bắt đầu hoảng sợ, vì những người khốn khổ này cứ muốn chạm đến tôi và xin tôi cầu nguyện cho. Tối hôm đó, họ giật hết nút áo tôi, và sém chút nữa thì đè tôi chết bẹp. Tôi cũng lo lắng cho những người đã đi đường cả ngày trời đến đây, mà lại không kiếm được thức ăn trong làng, và đành ra về bụng đói, nhưng lòng đầy tình thương của Chúa.
Do đó, chúng tôi cầu xin Chúa soi sáng cho biết phải làm gì cho đám dân đông đảo này. Chính Chúa đã đặt chúng tôi vào thế kẹt, thì cũng chính Ngài phải giải quyết cho chúng tôi thôi! Trong lúc cầu nguyện, Chúa chỉ giáo cho chúng tôi qua tiếng lạ của Evarsto Guzman. Để không còn chút nghi ngờ nào, thì Chúa cho tôi ơn giải thích thông điệp ấy:
- Hãy loan báo Tin Mừng cho dân Ta! Ta muốn có một đoàn dân ca ngợi.
Không nên sợ những đoàn tụ đông đảo Chúa đưa đến với chúng ta, để họ được nghe rao truyền Lời Cứu Độ. Ai sợ những kỳ công của Chúa, tức là sợ luôn “Vị Chúa của các kỳ công”.
Một số người ngạc nhiên, vì Chúa đáp lời cầu nguyện của họ quá mau lẹ. Tôi nói với họ rằng: nếu Chúa là Đấng tốt lành dường nào, mà không đáp lời cầu của họ, mới là điều đáng ngạc nhiên hơn:
“Trước khi chúng kêu cầu, Ta đã đáp lại; khi chúng còn đang nói, Ta đã nhận lời” (Is 65,24).
“Hãy xin sẽ được, hãy tìm sẽ gặp, hãy gõ cửa sẽ mở cho!” (Lc 11,9-13).
Đức cha Antonio Flores, Giám Mục La Vega, nghĩ sao về tất cả vụ này? Ngài rất cởi mở, nhưng lại rất ngại khi thấy báo chí, phát thanh, truyền hình làm rùm beng. Tôi đến thăm ngài và tìm thấy ngài trong nhà nguyện. Chúng tôi cùng cầu nguyện, sau đó đã đồng ý phân chia đám đông thành nhiều nhóm nhỏ, nhưng chúng tôi đã từng làm trước kia tại Nagua. Tôi trở về vui mừng, vì nhờ Thánh Thần, Giám Mục và tôi hoàn toàn đồng ý với nhau.
Ngay sau đó, chúng tôi nhờ phát thanh và truyền hình, để thông báo rằng: Các cuộc tụ họp quy mô, đông đảo từ nay tạm đình lại, và yêu cầu mỗi người về nhóm họp tại nhà thờ xứ đạo mình mà cầu nguyện.
Chúa có chương trình cho những biến cố tại Pimentel: thức tỉnh dân Ngài, lay chuyển Giáo Hội, đồng thời cho thấy rằng Ngài đang sống, và ban sự sống dồi dào cho những ai tin vào danh Ngài.
Từ đây, bắt đầu một cách làm việc mới, sâu hơn và tế nhị hơn; huấn luyện người phụ trách những nhóm cầu nguyện nhỏ. Cuối tuần, chúng tôi có một buổi tĩnh tâm cho những người tình nguyện dấn thân nhiệt tình nhất. Chúng tôi dẫn giải cho họ hiểu thế nào là nhóm họp cầu nguyện, là Canh Tân Đặc Sủng, Thanh Tẩy trong Thánh Thần và các đặc sủng là gì, và “Chúng tôi đã trao phó họ cho ơn sủng của Thiên Chúa” (Cv 20,32). Ba ngày sau, họ đã đảm trách việc hướng dẫn 45 nhóm cầu nguyện rải rác nhiều nơi trong xứ đạo. Có nhóm họp nhau dưới lùm cây, nhóm trong nhà thờ, nhóm tại các nhà tư và đây đó khắp nơi. Tất cả thành phố trở nên nhà cầu nguyện.
Để cho mọi người dán mắt nhìn vào Chúa Yêsu, chứ không phải vào một người phàm nào; thì đêm hôm đó, tôi rời xứ đạo. Chúa ở lại với họ và tiếp tục chữa lành bệnh nhân.
Năm 1984, trong một dịp viếng thăm nhằm ấn hành quyển sách này, người ta tặng cho tôi một cuốn vở ghi 244 chứng từ được chữa lành, do một trong những nhóm đã họp tại nhà của Guara Rosario, đường Colomb. Chỉ trong đêm 13-11-1985, đã có 22 chứng từ về ơn lành bệnh. Sau đó ít lâu, bởi số chứng từ quá đông, người ta thôi ghi chép. Chúng tôi có hỏi là Chúa còn tỏ uy quyền ra như trước không, thì họ trả lời cách đơn sơ hết sức:
- Không, bởi bây giờ không còn có các bệnh nhân như trước nữa.
6. Chúa Nhật Lễ Lá:
Chúa ngự đến khải hoàn, không những trong thành Pimentel, mà còn trong cả xứ và vượt qua biên giới nữa. Mọi sự đều diễn ra lạ lùng như mơ. Chưa bao giờ đời truyền giáo của tôi lại trở nên hấp dẫn và đẹp đến thế!
Cả phương tiện truyền thông, Chúa cũng dùng để chữa lành bà mẹ của một nhân viên giới thiệu chương trình truyền hình. Và chính anh ta đảm nhận việc làm chứng cho Chúa trước ống kính thu hình.
Chúa cũng vào Hạ nghị viện, để chữa lành một nữ dân biểu bị đau cổ.
Sau này, tôi được biết là nhà xuất bản tạp chí Pháp “Ngài vẫn sống”, đã biên thư hỏi Đức Giám Mục về sự xác thực của những việc xảy ra tại Pimentel. Ngày 15-10-1975, Đức Giám Mục đã phúc đáp ngyên văn như sau: “Lời chứng của cha Tardif là xác thực”. Thư của Ngài được đăng trên báo số 6-7 của tập san.
Trong những ngày đó, chúng tôi – như các Tông đồ trên núi Taborê – được nhìn ngắm vinh quang của Chúa. Chúng tôi chia sẻ với Chúa Yêsu điều mà Cha Ngài đã phán:
“Đây là Con Ta rất yêu dấu, Người được Ta sủng ái” (Mt 17,5).
Ngày 16 tháng 7, Chúa tiên báo, qua một lời tiên tri, cho biết là chúng tôi sẽ bị tấn công, chế giễu; nhưng chúng tôi không phải hoảng sợ, vì Chúa đã thắng thế gian.
Ba tháng sau, cha sở nghỉ hè về. Ngài rất ngạc nhiên về những gì ngài thấy và nghe dân chúng kể lại. Tất cả đều quá kỳ diệu, khiến ngài không thể tin nổi.
Chúa đã viếng thăm dân Ngài, khơi dậy một mãnh lực cứu độ trong xứ đạo của Ngài, xót thương người nhà của Ngài, thắp lên một tia sáng giữa bóng tối, để một khi được giải thoát khỏi mọi nỗi lo sợ, chúng ta có thể phụng sự Chúa cách thánh thiện và chính trực mọi ngày trong đời sống chúng ta (Kinh Benedictus).
Chúa đã chữa lành đàn ông và đàn bà, từ nhân viên cảnh sát đến trẻ con, những người từ xa đến và những bệnh nhân nan y. Chúa rao giảng Tin Mừng, loan báo Nước Trời cho dân Ngài, sử dụng các phương tiện truyền thông như báo chí, truyền hình. Quả thực, đó là một ngày Chúa Nhật Lễ Lá: Chúa ngự vào thành cách khải hoàn.
Khi tôi rời Pimentel để trở về Nagua, con đường đất vắng tanh. Gió lay nhẹ những cành lá chà là, và mơn trớn lá cờ đã từng chứng kiến những việc lạ lùng Chúa làm. Lòng tôi luyến tiếc nhớ đến những đám đông đã từng thấy. Lúc bấy giờ, có một chú lừa con đi qua, nhảy nhót vui vẻ, nhìn tôi với đôi mắt to, rồi nhô cả hàm răng, như cười nói với tôi:
- Ông chỉ là con lừa đã mang Chúa Yêsu đến làng này, và bây giờ ông phải quay về Betfagê thôi! Vinh dự, cành lá vạn tuế và lòng tri ân chỉ dành cho Đấng được ông chở trên lưng, chứ không phải cho ông. Phần ông, như Gioan Tẩy Giả, hãy nhỏ đi để Ngài lớn lên! Emiliano Tardif phải chết, để Chúa Kitô sống trong ông. Vinh dự của ông là Chúa Kitô được hiển vinh, đặc ân của ông là rao giảng Tin Mừng.
Con lừa vẫy đuôi, như nói với tôi: “Chào tạm biệt nhé!’, rồi nó xa dần. Còn tôi trở về Nagua, lòng đầy hân hoan, phấn khởi.
7. Tuần Thánh:
Mọi sự đã xảy ra như buổi hoàng hôn muôn sắc màu rực rỡ, và Chúa đã tỏ ra thật tuyệt vời hơn chúng tôi có thể tưởng. Khi cơn say tình Chúa chưa qua, thì đã có những áng mây đen ập đến che kín bầu trời. Đột nhiên, mọi sự tối sầm lại, mặt trời ẩn khuất đâu mất, cuồng phong, bão táp bắt đầu ào thổi dữ dội, nhưng tôi vẫn tin là Chúa đang ở với tôi.
Ông Bộ Trưởng Y tế tố cáo trên truyền hình là: tôi đã lạm dụng sự ngu dốt của dân chúng, làm cho họ tưởng đã lành bệnh. Ông ta nói tôi là một tên lang băm, lừa gạt dân chúng. Ông hỏi tại sao tôi không đi làm như vậy ở một nước đang phát triển như Canada.
Kẻ khác tấn công, bảo tôi là người ngoại quốc nên không hiểu gì về dân chúng ở đây, các phép lạ và việc chữa bệnh này sẽ đưa dân chúng đến sự phù phép, mê tín. Tôi đã trả lời rằng:
- Chắc chắn là tôi không biết dân chúng bằng họ, nhưng tôi biết rõ Chúa Yêsu, và Ngài không bao giờ đem đến mê tín, dị đoan. Trái lại, khi Chúa hành động, Ngài luôn làm tốt mọi sự, chúng ta không phải sợ.
Đài phát thanh, báo chí, đài truyền hình tấn công tôi dữ dội… Chỉ sau mấy hôm, tôi đã thành tay phù thủy và tên lừa bịp, bởi tôi tin và rao truyền Chúa Yêsu đang sống, đang cứu thoát và đang chữa lành dân Ngài, mà người ta cho tôi là điên khùng, là cuồng tín, v.v…
Các tờ báo trước kia đã thán phục tôi, thì nay – sau 24 giờ đồng hồ – đã trở mặt chống lại tôi. Nhờ đó, tôi học biết được một điều: vinh quang mà thế gian ban tặng quả là mong manh, chóng tàn, và lo nghe ngóng dự luận người đời cũng là một việc điên rồ. Chỉ trong vòng mấy tiếng đồng hồ, mọi hào quang, vinh hiển đều bị quét sạch. Phần tôi, tôi tin cậy vào Chúa Yêsu – Đấng hôm qua, hôm nay, ngày mai và mãi mãi là một, không đổi thay. Vì tôi không bận tâm đến lời họ khen tụng tôi, nên khi bị chỉ trích, tôi cũng chẳng mảy may giao động. Lòng tôi thật sự an bình.
Một số người tự xưng là tâm lý gia đến nói với tôi: những bệnh được chữa lành là do tác động của đám đông, hoặc do năng động cuồng loạn của tập thể; vì thế, đó là điều rất bình thường, không có gì là phép lạ cả. Tôi đáp lại họ cách đơn giản:
- Thế là các ông rất bất công; vì khi biết được cách chữa bệnh như vậy, mà các ông lại không tổ chức những cuộc tụ họp như thế mỗi buổi chiều, để chữa bệnh cho dân chúng trong xứ.
Những người khác cho chúng tôi thuộc loại duy cảm xúc. Tôi nói với họ là thuyết duy cảm xúc chỉ cố tìm cảm xúc vì cảm xúc; còn chúng tôi, chúng tôi tìm Chúa. Điều này mới thật là cảm động! Tìm thấy một kho tàng chôn giấu, là điều cảm động và hào hứng. Khi sự mừng rỡ tỏ hiện trên mặt một người, thì đó là dấu cho biết người đó đã tìm được kho báu.
Người khác đả kích sự “ấu trĩ” của dân chúng rằng:
- Đoàn lũ này chỉ đến vì tọc mạch và cũng vì các việc chữa bệnh.
- Không cần biết vì lý do nào mà họ đến! Điều đáng quan tâm là họ đã có mặt, để chúng tôi rao giảng Phúc Âm. Chắc chắn là Giakêu không leo lên cây sung để lần hạt, nhưng chỉ do tọc mạch, “muốn thấy Chúa Yêsu” (Lc 19,3).
Đôi vị linh mục bắt đầu châm chọc chua cay:
- Cha Emiliano được khỏi bệnh lao, nhưng mắc phải chứng loạn óc.
Bởi tôi cầu nguyện bằng tiếng lạ, và tôi tin vào quyền phép chữa lành của Chúa Yêsu Kitô, nên họ tưởng tôi hóa điên, đến nỗi họ đến hỏi là tôi có điên không. Tôi trả lời:
- Chính tôi, tôi cũng đang tự hỏi mình như thế, vì bây giờ, tôi chỉ nói về Chúa mà thôi!
Những linh mục lân cận ganh với tôi. Một số đề nghị Cha Giám Tỉnh Hội dòng của tôi trục xuất tôi ra khỏi xứ, vì theo họ nghĩ: với tất cả việc tào lao kia, tôi sẽ phá hỏng mọi cơ cấu mục vụ. Tôi trả lời:
- Chúa Yêsu không đến để cứu cơ cấu mục vụ, nhưng để cứu dân Ngài, và đó là việc duy nhất mà Chúa đang làm giữa chúng ta.
Họ tố cáo rằng tôi lôi cuốn giáo dân bỏ xứ đạo, nhưng tôi có mời ai đâu, tôi chỉ rao giảng Tin Mừng thôi.
Một vị linh mục nói là chúng tôi thổi phồng quá trớn, trong khi cần phải làm chậm rãi hơn. Ông ta lý luận:
- Nếu cha kể cho tôi về một vài phép lạ, thì tôi có thể bắt đầu tin. Nhưng khổ nỗi, nhóm Canh Tân Đặc Sủng các người điên rồi, chỉ biết nói phép lạ với phép lạ…!
Tôi trả lời:
- Chỉ vì cha chưa biết Chúa Yêsu thật sự là ai đó thôi!
Linh mục ấy đáp:
- Có chứ! Nhưng cứ xem ở Lộ Đức! Tại đấy có một văn phòng xét nghiệm Y khoa, nghiên cứu các trường hợp được chữa lành, và người ta bảo là có rất ít trường hợp lành bệnh bởi phép lạ. Còn cha thì ngược lại…!
Tôi đáp:
- Nhưng, thưa cha, tiêu chuẩn đức tin của chúng ta không phải là văn phòng xét nghiệm Y khoa Lộ Đức, song là Phúc Âm; mà Phúc Âm nói đến bao nhiêu là phép lạ. Thánh Marcô – vị Thánh Sử đầu hết trong 4 vị – đã thuật 18 phép lạ và chữa bệnh của Chúa Yêsu, trong 16 đoạn Phúc Âm. Nếu chúng ta bỏ những đoạn kể lại những dấu lạ và quyền năng của Chúa trong Phúc Âm Marcô, thì sách này chỉ còn lại mấy trang thôi. Nhiều người, vì muốn loại bỏ khía cạnh dấu lạ ấy, nên chỉ còn giữ lại một Phúc Âm bị cắt giảm, biến thành một giáo thuyết. Không! Phúc Âm là một sức sống! Ta cần phải cảm nghiệm và làm chứng cho sự sống ấy! Lần đầu tiên, Công vụ Tông đồ đề cập đến Kitô giáo, đã định nghĩa Kitô giáo là “sức sống” (Cv 5,20).
Người ta tấn công tôi tới tấp, khắp nơi – ngay cả những người tưởng là thân nghĩa với Chúa Yêsu. Thậm chí tôi phải viết một bài báo đăng trên tạp chí “Amigo del Hogar” tháng 08-1975, với tựa đề: “LỖI TẠI CHÚA YÊSU”, trong đó có đoạn tôi nói thế này:
“Khi đối diện với những nguy cơ thực sự có thể đưa đến cuồng tín do những phép lạ xảy ra, thì chúng ta lại rơi vào tình huống ngược lại, có khi còn trầm trọng hơn; đó là quên rằng: Thiên Chúa là Chúa Tể, có thể làm những điều-không-thể (Maitre de L’Impossible).
“Chữa bệnh, thực sự là một cách Chúa đáp lời cầu nguyện với lòng tin, như chúng ta đã thấy nhiều lần trong Tin Mừng. Lối cầu nguyện này có thể xuất phát từ bệnh nhân, hoặc từ những thân nhân, hoặc của cộng đoàn hay một cá nhân nào đó. ‘Chúa Yêsu hôm qua, hôm nay và mãi mãi vẫn là một’. Chính Ngài làm chủ lịch sử và Ngài thực hiện như ý Ngài muốn, không cần hỏi ý kiến hay xin phép để thực hiện những dấu lạ của Ngài. Chúng ta là ai mà dám chống lại, hoặc đặt giới hạn cho công việc của Thiên Chúa? Chúng tôi chắc chắn là Chúa không phản đối y khoa, nhưng sự thực là hàng ngày, biết bao người không có tiền đi khám bệnh, trả tiền bệnh viện, thuốc men…
“Có gì lạ khi Thiên Chúa quan tâm đến người nghèo và đích thân cứu giúp họ? Tại sao ngăn cản những kẻ tin lời Chúa Yêsu phán: ‘Hãy đến với Ta, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng! Ta sẽ bổ sức cho…’?
“Phải chăng chúng ta đã quen với thứ Kitô giáo theo tầm cỡ của chúng ta? Bằng những dấu chỉ này, Chúa cho chúng ta thấy Ngài đang sống. Ngài chất vấn chúng ta, vì nếu Ngài đang sống, thì mọi yêu sách của Ngài đều thích đáng. Vấn đề chủ yếu là Chúa Yêsu đang sống, chứ không phải chết rồi!”
Ít lâu sau, tôi nhận ra rằng mình đã phạm hai sai lầm qua bài báo này; đó là minh chứng sự việc chữa lành bằng cách nêu danh tánh và địa chỉ của những người khỏi bệnh, với ý nghĩ: chính những sự kiện hiển nhiên sẽ cảm hóa con tim của họ, chứ không do ơn đức tin. Tôi cho họ dấu bởi trời mà họ muốn thấy, nhưng không hoán cải được họ, vì dấu chỉ vẫn là dấu chỉ thôi! Duy có đức tin mới làm cho chúng ta nhận ra ý nghĩa của các dấu chỉ: đó là Thiên Chúa đã yêu thương con người, Đức Kitô đang sống, và Giáo Hội có quyền năng của Thánh Thần để phục sinh kẻ chết.
May thay, Chúa đã cho tôi hiểu và nhận ra rằng: đừng tìm cách chống lại những kẻ tấn công, đừng làm khác Chúa Yêsu, đã không tự biện hộ trước những kẻ tố cáo Ngài. Nếu tôi tìm cách tự vệ bằng những phương thế và lý luận riêng, tức là tôi không để Chúa bảo vệ tôi bằng đường lối và cách thức của Ngài.
Mặt khác, tự biện hộ cho mình thì chẳng khác chi từ chối không để Chúa thanh luyện. Qua những chống đối, những hiểu lầm, Chúa muốn uốn nắn ta theo hình ảnh Con của Người – Đấng đã phải trải qua đêm đen của Núi Sọ, để đạt đến vinh quang Phục Sinh.
Thời gian đã giúp chúng tôi xác tín rằng: lời nịnh hót nguy hiểm hơn lời chỉ trích; vì lời chỉ trích được ví như ngọn lửa thanh luyện và đốt cháy những bất chính trong lòng ta, còn lời xua nịnh đã từng bị Chúa Yêsu lên án gắt gao nhất:
“Khốn cho các ngươi, khi mọi người đều nói tốt cho các ngươi; vì cũng cách ấy, cha ông họ đã đối xử với các tiên tri giả” (Lc 6,26).
Vì vô ý thức, chúng ta quên mình chỉ là những bình sành bằng đất; song chính Chúa đã nhắc nhỏ chúng ta điều đó bằng thập giá của hiểu lầm và chống đối. Trong tình thương xót, Chúa thanh tẩy và hạ chúng ta xuống, để chúng ta không tự giành lấy vinh quang chỉ thuộc về một mình Chúa.
Thập giá ví như sa mạc, nơi Thiên Chúa hằng sống tỏ mình ra. Cần cởi dép ra, để được đến gần bụi gai bừng cháy. Lời chỉ trích chẳng khác nào tiền đường của Đền Thánh Chúa – nơi chuẩn bị chúng ta nên trong sạch, trong suốt – mà tiến vào Điện Thờ Thiên Chúa hằng sống…, dứt chúng ta khỏi mọi ràng buộc nguy hiểm nhất, mà ta gọi là những công trạng và “những hoạt động tông đồ” của mình.
Những chống đối ngày càng dữ dội và liên tục, đến nỗi tôi tưởng chừng không cưỡng lại nổi. Khắp nơi, người ta làm khốn tôi. Phần mình, tôi cảm thấy cô đơn trên một nẻo đường mới lạ. Bấy giờ, tôi xin một người chị em đầy ơn Chúa cầu nguyện cho tôi. Chị đó đã cầu nguyện và cho tôi một lời thông tri để trấn an. Chúa nói với tôi:
- Sau khi hưởng niềm vui của ngày Chúa Nhật Lễ Lá, con có thấy là bình thường, khi nếm thử một chút Tuần Thánh không?
Lời này đã chữa lành vết thương lòng tôi. Từ đó, tôi nhìn các vấn đề một cách xác đáng trong sự bình an trọn vẹn. Những lúc mọi sự đều êm xuôi, tôi nói: “Chúng ta đang ở trong Chúa Nhật Lễ Lá”. Nếu gặp khó khăn, tôi đơn giản xác quyết: “Đó là Tuần Thánh!”. Dù sao đi nữa, Phục sinh không còn xa… Vinh danh Thiên Chúa!
Trước khi thử thách chúng ta, Chúa Yêsu ban tình yêu Ngài cho ta; và khi Ngài yêu ta, Ngài luôn tặng thập giá Ngài cho ta. Thập giá là quà tặng của Thiên Chúa cho những kẻ Người yêu mến, nhưng thập giá không thể hiểu và đón nhận được, khi ta chưa cảm nghiệm được tình Chúa yêu ta. Trong kế đồ của Thiên Chúa, trước đồi Canvê, luôn có núi Tabo. Chúa đã cho tôi nếm thử vinh quang Tabo, nhưng không cho tôi cắm lều trên đó; Chúa đưa tôi xuống núi và thông phần vào thập giá của Ngài – thập giá cứu độ và đưa chúng ta đến Phục sinh.
Cuộc sống chúng ta diễn tiến như các mầu nhiệm Mân Côi: mầu nhiệm Vui có, Thương có, Mừng có; nhưng tất cả mỗi mầu nhiệm đều kết thúc bằng một lời chúc tụng: “Sáng danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”. Mỗi ngày, chúng ta sống một mầu nhiệm. Đời ta không chỉ là vui, thương, hay mừng; song là tất cả mầu nhiệm hòa trộn với nhau cho vinh quang Thiên Chúa. Thập giá và Phục sinh tựa như những bức họa của Rembrandt; trong đó, bóng tối và ánh sáng chen lẫn vào nhau để diễn tả cái đẹp.
Dân chúng mê ngủ, thụ động, chìm đắm trong ươn lười… Chúa đã đến và lay chuyển tất cả. Người ta hỏi các linh mục về những gì đã xảy ra; bởi đó, các linh mục đã phải đọc sách và tìm hiểu để trả lời thích đáng; ngay một ủy ban thuộc Hội Đồng Giám Mục cũng đã nhóm họp để cho ra một công bố. Việc này đối với tôi, thật rất quan trọng! Phần tôi, tôi tin chắc rằng: điều đang xảy ra là công việc của Chúa, nhưng tôi cần đến sự nhận định sáng suốt của các Giám Mục. Đối với tôi, các ngài là tiếng nói của Thiên Chúa. Các ngài phát hành một công bố với tựa đề: “Đức Thánh Cha phê chuẩn và khuyến khích những cuộc họp cầu nguyện Canh Tân Đặc Sủng”; dưới đó, có phụ đề này: “Đức Cha Pepen (Thư ký Hội Đồng Giám Mục toàn quốc) tán thành công việc của cha Tardif”.
Khi đọc bản văn này, tôi rất sung sướng; nhưng tôi lại phát cười nghĩ rằng: “Đâu có phải là công việc của tôi…!” Cũng như Thánh Giuse xưa, tôi có một điều chắc chắn là: sự sống đang nảy sinh trong lòng Giáo Hội không phải là của tôi.
Chẳng biết thế nào và tại sao, tôi nhận được lời mời của Đức Cha Carlos Talavera đến giảng cấm phòng cho các linh mục tại Guađalajara, Mêhicô. Bắt đầu từ đó, nhiều nơi khác đã mời tôi đến, để cao rao việc lạ lùng của Chúa tại các xứ Châu Mỹ La tinh.
Tôi bắt đầu thấy ló rạng một kỷ nguyên sáng lạn cho Giáo Hội. Tôi nghĩ đã đến lúc phải rao giảng trên các mái nhà, ngoài khuôn viên thánh đường, vì nhà thờ không đủ chỗ cho đám đông. Chúa dẫn chúng tôi đi đến tận cùng mặt đất, để làm chứng rằng Ngài đang sống… Khắp nơi, khắp chốn, đều được nghe thấy một điều:
“Người mù được thấy, kẻ què được đi, người cùi được lành, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại và Tin Mừng được loan báo cho người nghèo khó” (Lc 7,22).
Sau chuyến đi Panama, tôi trở về với nhiệm vụ cha xứ. Tôi chuẩn bị đi thăm cộng đoàn sâu tít trong núi. Tôi phải đi bằng lừa. Ngồi lắc lư trên lưng lừa, tôi trộm nghĩ:
- Ôi chao, con lừa của tôi thật khác xa với máy bay Boeing 747 của hãng PanAm biết bao!
Đường lối của Chúa quả thật tuyệt vời! Đi máy bay hay cưỡi lừa, chúng ta luôn là những sứ giả của Chúa, mười ngàn hay sáu chục ngàn người cũng là con cái của Chúa. Và những người bé mọn trên núi kia mới thật là người nghèo của Chúa. Chúa thật lạ lùng! Sau khi cho chúng tôi đi máy bay, bây giờ thì đặt chúng tôi trên lưng lừa, âu cũng là để dạy chúng tôi bài học khiêm tốn.
Trên lưng lừa, tôi hiểu được bài học lớn này: chúng ta được gọi, để đóng vai con lừa chở Chúa Yêsu vào thành Yêrusalem ngày Chúa Nhật Lễ Lá. Ơn gọi chúng ta là làm người chuyên chở Chúa Yêsu, chúng ta là bình sành chứa đựng một kho tàng quý giá bên trong.
Trước kia, chúng ta cố gắng nuôi một dân không biết đói khát Chúa. Tệ hơn nữa là chính chúng ta cũng không nếm hưởng được Bánh ban sự sống đời đời. Đến bây giờ, chúng ta vẫn không thể nuôi sống tất cả mọi người, mùa gặt thì nhiều, quá nhiều; nhưng Chúa còn lớn lao và quyền phép hơn.
Chúa đã nhóm lên đốm lửa, bây giờ là một đám cháy, ai có thể tắt nổi? Ấy cũng là dòng sông nước trường sinh đang tràn ngập Giáo Hội, để thanh tẩy, canh tân và thánh hóa Giáo Hội.
Nhiều cặp vợ chồng sống với nhau không hôn phối, đã ý thức là họ không thể tiếp tục sống như vậy nữa. Bí tích Hôn phối, đối với họ, nay đã trở nên quan trọng. Họ đã chuẩn bị nghiêm túc để đón nhận và sống Bí tích đó. Trong một năm, chúng tôi cử hành 306 đôi hôn phối; đó là một con số không dễ có.
Phép lạ lớn nhất Chúa ban cho tôi được chứng kiến trong những năm gần đây, đã khơi dậy những người thợ gặt cho mùa lúa của Ngài.
Bây giờ thì số giáo lý viên rất đông, đông đến nỗi chúng tôi thấy trách nhiệm trước tiên là đào tạo họ thành những người có khả năng rao truyền Tin Mừng.
Lễ Hiện Xuống năm 1976, chúng tôi có tất cả 120 giáo lý viên, và đã xin Chúa đổ Thần Khí Ngài xuống trên chúng tôi. Thần Khí không chỉ là một ơn sủng làm cho lòng trí chúng ta được hân hoan, nhưng còn là một sức mạnh đặc biệt, để loan báo cho thế giới biết là Đức Kitô đang sống và đang ban sự sống cho những ai tin nơi Ngài (Ga 3,15).
Tôi bắt đầu nhận những lá thư từ Pháp, Châu Mỹ La tinh, Phi Luật Tân; có cả những người gởi từ những nước mà tôi không thấy ghi trên bản đồ. Thỉnh thoảng, tôi nhận được thư bằng những ngôn ngữ và các dấu hiệu mà tôi không hiểu gì cả, tôi bèn đặt chúng vào tay Chúa, xin Ngài phúc đáp, vì Chúa biết mọi sự.
Tôi nhớ chưa bao giờ tôi có một sức khoẻ như hiện nay. Tôi ăn được mọi thứ, ngủ ngon. Chúa đã trả lại cho tôi sức khoẻ hoàn hảo, và tôi sung sướng được phục vụ việc rao truyền Tin Mừng cho dân Ngài.
Tuy nhiên, tôi tin là ơn lớn nhất Chúa đã ban cho tôi là niềm hoan lạc: tôi vui sướng không phút giây nào ngơi.
Chưa bao giờ tôi sống trọn vẹn chức linh mục của tôi như bây giờ!
(*) Ví dụ như Đặc sủng chữa bệnh. Có thể áp dụng câu hỏi của Thánh Phaolô đặt ra cho dân Galát: “Đấng đã… làm nên những việc quyền phép giữa anh em, phải chăng vì anh em hành động theo lề luật, hay vì lòng tin của anh em vào lời rao giảng?” (Gal 3,5).
Pages
18/5/09
CHÚA GIÊSU ĐANG SỐNG (Chương III)
Chương III:
CHÚA YÊSU ĐANG SỐNG
Trong suốt tháng 6 năm 1981, sau một vòng đi giảng tại Algérie và Maroc, Chúa cho tôi được diễm phúc đến viếng Thánh Địa.
Sau ngày đến Thánh Địa, tôi dậy trước khi mặt trời mọc và đi vào các con đường nhỏ cổ kính, khúc khuỷu trong thành phố Yêrusalem và dọc theo con đường mà Maria Mađalêna đã đi đến mồ ngày Chúa sống lại.
Khi đến Mồ Thánh, tôi gặp một người bạn Mêhicô, trước kia đã cưới một cô vợ đẹp người Porto Rico tại Cana. Bước vào trong mồ, anh ta chỉ cho tôi thấy một bảng ghi bằng tiếng Hy Lạp:
“Sao các người đi tìm người sống trong kẻ chết? Ngài không có ở đây, Ngài đã sống lại” (Lc 24,6).
Nay, tôi cũng chưa hết sững sờ về buổi sáng hôm đó, đã như dội lại trong tôi quang cảnh ngày Chúa Phục Sinh. Từ bóng tối của chiếc mồ trống, đã rọi ra một ánh sáng chiếu soi mọi người để khởi đầu một tạo thành mới.
Nếu Chúa Yêsu không có trong mồ trống tại Yêrusalem, thì chắc chắn Ngài đang ở trong khắp thế gian. Chỉ có một chỗ độc nhất trên mặt đất này mà Chúa Yêsu không có mặt, là cái mồ đẽo đục trong đá do người bạn của Chúa – ông Giuse Arimathia – đã cho Chúa mượn xưa kia.
Chúa Yêsu không sai các môn đệ đi dạy lý thuyết hay những tư tưởng trừu tượng, nhưng sai đi để làm chứng về những gì đã thấy và đã nghe. Khốn nỗi, hình như chúng ta chỉ lo lắng dạy đạo lý hơn là thông truyền sự sống. Để được lớn lên trong sự sống Thiên Chúa, trước hết, ta phải được sinh ra bởi quyền lực Thánh Thần.
Một sứ giả Tin Mừng, trước tiên, phải là một chứng nhân có một kinh nghiệm cá nhân về sự chết và Phục sinh của Chúa Yêsu Kitô, và là người truyền đạt cho kẻ khác, không chỉ một đạo lý, mà về một Đấng-Vẫn-Sống và đang ban sự sống dồi dào. Sau đó – chỉ sau đó và luôn luôn sau đó – người ta mới dạy giáo lý và luân lý. Đôi khi, chúng ta làm cho người ta tuân giữ các điều răn Thiên Chúa, trước khi họ biết được vị Thiên Chúa của các điều răn. Chúng ta không nên quên rằng: mười điều răn được Thiên Chúa trao cho Môsê, sau khi đã tỏ mình ra trên núi Sinai.
Không ai có thể trở thành sứ giả đích thực của Tin Mừng, nếu người đó không có kinh nghiệm đời sống mới mà Chúa Yêsu ban cho. Khi chúng ta làm chứng được những gì Chúa Yêsu đã làm từ sau khi sống lại, thì lúc ấy mọi sự đều được đổi khác. Lời rao giảng sẽ được kèm theo dấu lạ điềm thiêng như Chúa đã hứa.
Tại Janico, một ngày kia, cha xứ mời chúng tôi giảng cấm phòng. Ngài báo trước là giáo dân ở đây rất cứng lòng và không thích đi nhà thờ. Buổi chiều đầu tiên chúng tôi đến, người tham dự buổi tĩnh tâm rất ít. Nhưng thấy có một người đàn ông nằm xoải trên nền nhà, trông như một búp bê bằng vải không thể đứng trên hai chân. Ông ta bị bại hai chân và tay, không thể ăn uống hoặc đi đứng một mình được. Thật là thảm thương! Tôi nghĩ trong lòng: “Tại sao người ta đưa ông này đến đây làm gì vậy?”. Khi nhìn lại hình dáng thảm hại của ông ta, tôi bèn nói:
- Chúng ta hãy cầu nguyện cho người đàn ông này, để chốc nữa, anh em sẽ dẫn đưa ông ta đi cùng với anh em!
Lúc khởi sự cầu nguyện, ông ta bắt đầu toát mồ hôi và run rẩy. Thấy vậy, tôi hồi tưởng lại, chính tôi đã cảm thấy nóng ran khi Chúa chữa tôi. Tôi liền nói với ông ta:
- Hãy chỗi dậy! Chúa đang chữa ông đấy!
Ngay lúc ấy, tôi cầm tay ông ta và truyền ông ta bước đi. Ông ta đi tới Nhà Tạm, ở đó, ông ta làm chứng là đã không đi đứng được từ 19 năm nay.
Tôi nghĩ bụng: “May mà tôi không biết là ông ta bị bại liệt tứ chi đã từ lâu…; nếu biết, tôi đã không dám bảo ông ta đứng dậy”. Trưa hôm đó, sau khi tất cả mọi người đều ra khỏi nhà thờ, chúng tôi băng qua đường đến ngồi ở bậc tam cấp. Vừa ngồi xuống, ông ấy nói với chúng tôi:
- Chúa cũng đã chữa lành cả đôi tay tôi nữa. Tôi có thể ngó ngoáy được…
Việc ông bại xuội này được loan ra. Ngày hôm sau, phòng họp chúng tôi đầy ắp người. Nhiều người đứng đằng sau cửa sổ và cửa nhà thờ.
Ngày nào chúng tôi đón nhận quyền năng của Chúa qua các lời chứng, ngày ấy, lời rao giảng của chúng tôi đổi khác hẳn.
Trước kia, tôi dọn bài giảng rất kỹ lưỡng, tôi học hỏi các nhà văn cổ điển và đọc sách thần học cận đại. Các điều tôi đọc trong sách rất hay và sâu sắc, đến nỗi tôi không muốn để mất những gì tôi thu lượm được, tôi muốn đem hết các điều ấy ra giảng. Cho nên tôi biên tất cả trên giấy rồi đọc lại, để có thể hưởng nguồn phong phú đó mà tôi muốn truyền đạt lại.
Ngay trong vấn đề này, Chúa cũng đã thay đổi tôi. Một Chúa Nhật nọ, tôi đang ngồi trước bài giảng dọn kỹ lưỡng bằng những ý tưởng thu lượm ấy, thì Chúa nói với tôi:
- Nếu con là người đã từng học bao năm, từng đọc bao nhiêu sách, mà chưa đủ khả năng ghi những điều ấy vào trí nhớ, để chốc nữa đem ra lập lại cho người khác nghe; thì làm sao con lại muốn cho những người đơn sơ, chất phác này chưa hề được tập luyện như con, lại có thể ghi nhớ những điều đã nghe để thực hành trong cuộc sống?
Từ đó, tôi thay đổi cách giảng dạy, tôi chỉ còn làm chứng cho quyền phép của Thiên Chúa và những gì Người đang làm, và tôi kể lại những việc của Tình yêu Thiên Chúa.
Tôi còn học được thêm một điều quan trọng: điều cần thiết là không phải nói hay về Chúa Yêsu, nhưng là để mặc Ngài, để mặc cho tất cả quyền năng của Thánh Thần. Tại sao phải nói về Chúa Yêsu một cách tuyệt vời, đang khi chúng ta chỉ cần để cho Người hành động qua chúng ta? Nước Thiên Chúa là quyền năng và sức mạnh đến từ trời cao và tỏ hiện giữa chúng ta.
Một lần nữa, tôi giảng lâu lắm, hơn một tiếng đồng hồ. Giảng xong, một linh mục đến gần tôi, vẻ bực tức, chỉ vào đồng hồ và nói với tôi:
- Tôi không ưa bài giảng của cha; vì trong 67 phút, cha toàn nói đến phép lạ và phép lạ, mà không ám chỉ đến phép lạ nào trong Phúc Âm cả.
Một người khác nghe vậy liền đáp:
- Tại sao phải nói về những phép lạ đã xảy ra cách nay 2.000 năm, nếu người ta có thể nói về những phép lạ mà Chúa Yêsu mới làm tuần trước?
Phần tôi, với những năm tháng còn lại của đời tôi, tôi không đủ để kể lại những gì Chúa đã làm trong 10 năm qua; những việc lạ lùng Chúa đã làm thật vô số kể. Cho nên, khi tôi chỉ có một tiếng đồng hồ, tôi nguyện kể lại những phúc lành mới được Chúa ban cho.
Tôi đã giảng dạy khắp năm châu và chỉ nói có bấy nhiêu sự, vì tôi không còn gì để nói ngoài lòng thương xót của Thiên Chúa. Tôi là chứng nhân Tình Yêu Thiên Chúa đối với loài người, đối với mọi người, mọi nước và mọi ngôn ngữ. Quyền năng của Thánh Thần đã biến tôi thành chứng nhân của Đức-Kitô-đang-sống.
Nhiều khi, không còn thời giờ để dùng bữa nữa. Sau những ngày giờ đi đường xa, tuy rất mệt nhọc, chúng tôi đã phải bắt đầu làm việc ngay, nhưng Chúa tỏ rỏ sức mạnh của Ngài qua sự yếu đuối của chúng tôi.
Trong kỳ tĩnh tâm tại Lộ Đức, nước Pháp, có những linh mục từ các nước châu Âu đến. Thật rất mệt nhọc, vì sau khi giảng, lại phải ngồi giải tội, rồi lại giảng hoặc cử hành Thánh Lễ.
Sau một bài giảng nọ, có một vài linh mục đến xưng tội. Vị thứ nhất là một linh mục Hòa Lan. Ông ta nói tiếng Pháp không rành, sau khi xưng tội, ông hỏi tôi:
- Cha có thể cầu nguyện cho tôi lành bệnh “câm” tai trái không?
Tôi suýt phì cười, vì câu nói ngộ nghĩnh của ông: “Tôi bị câm tai trái”… Tôi thưa với Chúa:
- Lạy Chúa, nếu Chúa chữa người này, thì sẽ là một việc chữa bệnh lớn nhất thế giới.
Còn tôi, tôi chỉ đợi ông ấy đi ra, để tôi có thể cười thỏa thích; nhưng liền sau đó, một linh mục khác vào và thấy tôi đang cười, vì tôi không quen nổi câu nói “câm tai trái”, và tôi đã cười suốt thời gian ngồi giải tội. Do đó, các linh mục nói với nhau về tôi:
- Cha Emiliano thật là vui sướng! Tuy phải làm nhiều việc, nhưng cha luôn vui vẻ.
Những linh mục khác nói:
- Thật là dễ chịu khi xưng tội với một linh mục luôn tiếp đón chúng ta bằng nụ cười.
Chúa dùng linh mục “câm tai trái” này, để tỏ cho tôi thấy Ngài là Chúa của niềm vui, và Ngài rất hài lòng tiếp đón chúng ta đến gần Ngài. Thiên Chúa chúng ta rất hóm hỉnh, điều đó không thể nghi ngờ.
Ngày kia, lúc tôi giảng cho một đám đông dân chúng trong một sân vận động, một người đến hỏi tôi:
- Cha không sợ, không nhút nhát khi giảng trước một cử tọa lớn như vậy ư?
- Khi chắc chắn là mình truyền đạt một Tin Mừng, thì người ta có thể leo lên mái nhà, làm chứng trong các trại giam và giảng trong các sân vận động. Tôi, tôi đã làm chứng về những gì tôi đã thấy. Nếu không, nói thật với anh em là tôi rất ngán nói.
Khi chúng ta không có kinh nghiệm về Chúa Kitô đang sống, thì chúng ta phải nói về muôn ngàn chuyện, trừ ra nói về Chúa Yêsu, cái đó mới là đáng ngán.
Ngày nay, chúng ta không cần một Phúc Âm mới, nhưng cần phải rao giảng Phúc Âm một cách mới, một lối giảng mới, là tuyên xưng cách mạnh mẽ và hữu hiệu rằng: Chúa Kitô đang sống. Không phải là lặp đi lặp lại những lý thuyết mà chúng ta đã nghe và đã đọc, nhưng là đưa ra những chứng từ của chínnh chúng ta. Ngày nay, chúng ta phải rao giảng Tin Mừng bằng quyền uy của Thánh Thần, với những dấu lạ và điềm thiêng – vốn là những việc bình thường trong cuộc rao giảng Tin Mừng.
Tại Đại hội Montréal tháng 6 năm 1977, có hơn 65.000 người đến đầy sân vận động Điền kinh dự lễ bế mạc. Hiện diện có Đức Hồng Y Roy, 6 giám mục và 920 linh mục, có cả ông Thị Trưởng thành phố, và gần bàn thờ, có hơn 100 bệnh nhân ngồi trên xe lăn của họ.
Chúng tôi hướng dẫn việc cầu nguyện cho bệnh nhân. Tất cả sân vận động vang tiếng ca ngợi Chúa. Bỗng nhiên, một phụ nữ, tên Rose Aimée, mắc chứng ngạch kết đã 11 năm, đứng dậy và bắt đầu bước đi trước mặt mọi người. Chỗ khác, một người, rồi một người nữa tiếp theo, mười hai người liệt bật đứng dậy, ra khỏi xe lăn và bắt đầu bước đi.
Dân chúng vỗ tay và khóc vì quá cảm động. Ông Thị Trưởng cũng khóc như con nít. Khi Chúa tỏ mình ra, không còn có ai là lớn cả, tất cả đều là nhỏ bé. Ông ta khóc vì sung sướng và cảm động.
Hôm sau, tờ báo chính của thành phố đăng tin: “Điều lạ lùng, kinh ngạc tại sân Vận Động Điền kinh: người què đi được”. Tờ báo Montréal ghi: “Những người nằm bệnh trên giường chỗi dậy và đi”. Việc bệnh nhân được chữa lành là một điều không đáng ngạc nhiên, điều đáng ngạc nhiên là nếu họ không được chữa lành. Thật vậy, nếu Chúa Yêsu không giữ lời hứa, ấy mới là kỳ!
Ngày hôm sau, người ta phỏng vấn tôi trên truyền hình:
- Ông có nghĩ rằng các việc chữa lành này là do động lực của đám đông, do cảm xúc, do tiếng hoan hô, vỗ tay của dân chúng không?
Tôi đáp:
- Nếu như vậy, thì xin ông hãy cắt nghĩa cho tôi, tại sao ở bất cứ trận đấu banh nào, lại không hề thấy một người què nào đứng dậy đi được, hay một người bệnh ung thư nào được lành, khi cả đấu trường bùng vỡ lên giữa những tiếng vỗ tay, hoan hô cuồng nhiệt chúc mừng cuộc thắng trận đấu?
Lời giải đáp duy nhất, đó là Đức Yêsu đã sống lại, và Ngài đang sống giữa chúng ta. Đừng tìm câu giải thích nào khác, vì luôn luôn ta sẽ sai lạc.
Chương trình của Chúa lắm lúc làm tôi bật cười. Ngài rất hóm hỉnh, chẳng hạn khi Ngài đặt một linh mục nhà quê đứng giảng Tin Mừng, trước mặt các nhà thần học từ nhiều nước tụ đến. Tôi chẳng dạy họ cái gì cả. Tôi chỉ có việc làm chứng cho họ về tình thướng xót của Trái Tim Chúa Yêsu.
Năm 1981, tôi giảng cấm phòng cùng với cha Albert de Monléon cho 320 linh mục tại Lisieux, nước Pháp; trong số này, có nhiều linh mục rất thông thái, một số rất nặng óc bình luận, và cũng không thiếu những vị có tính hoài nghi.
Sau một bài giảng thuyết tuyệt diệu của cha Monléon, thì đến phiên tôi giảng. Tôi cảm thấy nhỏ bé trước mặt những người quá thông thái, với đầy đủ các văn bằng và chức tước. Tôi cảm thấy nghèo nàn trước mặt Đức Hồng Y Suenens và các Giám Mục khác. Bởi đó, tôi cầu nguyện với Chúa rằng:
- Lạy Chúa, một linh mục từ một đảo nhỏ xíu như con đến đây, thì làm được cái gì trước mặt những người thông thái này? Và có thể các vị ấy cũng chẳng biết hòn đảo nhỏ của con nằm ở đâu. Xin đừng để con một mình, Chúa ơi!
May sao, đêm đầu tiên, Chúa chữa lành một linh mục bị đau viên tĩnh mạch; nhờ đó, mọi cuộc tranh luận đều chấm dứt. Sáng hôm sau, trong phòng cơm, ông ta vén ống quần lên và chỉ cho thấy hai chân được khỏi hoàn toàn. Bằng chứng này đã biểu thị vinh quang Thiên Chúa, hơn cả những bài diễn thuyết nghèo nàn của tôi.
Tai Lyon, sau một bài giảng của tôi cho hàng giáo sĩ, Đức Hồng Y Renard rất đỗi ngạc nhiên bởi những việc chữa lành kỳ diệu của Chúa. Ngài đứng dậy nói:
- “Đối với chúng ta, chấp nhận hành động mầu nhiệm của Chúa Thánh Thần là điều rất khó, bởi vì chúng ta duy lý. Nhiều hay ít gì, tất cả chúng ta là con cháu Descartes, và ngay cả Voltaire nữa. Bởi đó, chúng ta khó nhận ra được hoạt động của Thần Khí. Ngài muốn thổi đâu thì thổi như ý Ngài muốn, mà không bị giới hạn vào khuôn phép lý luận của lý trí chúng ta. Chúng ta đặt đường rầy buộc Ngài phải theo, nhưng Ngài bay vượt khỏi đó; chúng ta đưa cho Ngài ống dẫn hơi để Ngài có thể thổi qua đó, nhưng Ngài lại thổi bên cạnh. Thần Khí không theo chương trình mục vụ của chúng ta.
“Chắc chắn, chúng ta cần có một phương pháp mục vụ, nhưng căn bản của mọi việc huấn luyện đức tin chính là nhận ra điều này: không phải chúng ta điều khiển hành động chúng ta. Mọi phương pháp cần phải mềm dẻo đủ để Thần Khí có thể sử dụng, và hơn nữa, có thể biến đổi nó.
“Ân tứ của Thánh Thần thì khác nhau, và hiện tại có thể vì óc duy lý hoặc thiếu lòng tin, chúng ta tưởng các ân tứ đó là chuyện đời xưa.
“Người thời nay tìm kiếm những người có Thần Khí, những tiên tri có Thánh Thần soi sáng; nhưng nếu họ không tìm ra, họ sẽ chạy theo những kẻ thần khải giả hiệu; đó là điều rất nguy hiểm.
“Giáo Hội là một lễ Hiện xuống, chứ không phải là một sự duy lý trường kỳ.”
Những câu cuối cùng này của Đức Hồng Y nhắc tôi nhớ lại một giai thoại không có trong Phúc Âm. Một ngày kia, Chúa Yêsu đang ở với các môn đồ, Ngài hỏi họ rằng:
- Còn các con, các con nói ta là ai?
Simon Phêrô đứng dậy đáp:
- Thầy là sự hiển linh cánh chung, nuôi dưỡng trên bình diện hữu thể, cho xu hướng tính của những mối quan hệ tiềm thức và liên vị của chúng con.
Chúa Yêsu mở to mắt ra và hết sức ngạc nhiên:
- Sao, con nói gì vậy?
Và Phêrô không thể lặp lại được, vì ông đã quên ngay cái định nghĩa mà ông vừa nói ra. Vì điều đó không phải là cái ông có trong tim, nhưng chỉ có trong óc mà thôi.
Người đời chán nghe các lý thuyết và những thi phú văn hoa. Họ đói khát những lời sự sống và hữu hiệu. Đức Giáo Hoàng Phaolô VI nói:
“Thế giới này đã quá mệt mỏi vì phải nghe nhiều thầy, họ chỉ bị lôi cuốn bởi các chứng nhân”. Những chứng nhân là người có kinh nghiệm về đời sống mới do Chúa Yêsu ban cho.
Phúc Âm Thánh Luca kể rằng: chiều Chúa Nhật Phục Sinh, hai môn đồ Chúa từ Yêrusalem trở về Emmau. Họ buồn và chán nản, bởi Thầy họ đã chết, thì tất cả hy vọng khôi phục nước Israel của họ đều tan thành mây khói.
Chúa Yêsu đích thân đến với họ trên đường đi, và một trong hai ông, tên Clêopha, bắt đầu giảng một khóa Kitô cho Chúa Yêsu, mà ông ta không nhận ra được. Ông ta nhắc lại rành mạch từng việc làm, từng phép lạ, và từng lời Ngài nói. Ông ta kể lại cái chết thê thảm của Chúa trên thập giá mà toàn dân đã chứng kiến; nhưng kể đến chỗ Chúa sống lại, thì ông ta không thể nói kinh nghiệm của mình ra, chỉ biết lặp lại những gì các phụ nữ nói rằng: “Thiên thần đã nói…”
Cũng vậy, trong Giáo Hội, một số giảng viên chỉ lặp lại những gì các nhà thần học đã viết, hoặc những gì mà họ đã học được qua các trường lớp, nhưng chính họ lại chẳng có kinh nghiệm cá nhân nào về sự Phục Sinh của Chúa Yêsu Kitô.
Khi chính cá nhân ta chưa đích thân gặp Chúa Yêsu Kitô Phục Sinh, ta chỉ lặp lại những lý thuyết hoặc lời dạy của kẻ khác. Chúng ta được gọi làm chứng về những gì chúng ta giảng dạy, nhưng để trở thành một chứng nhân đích thực, cần phải có kinh nghiệm bản thân và những điều mình tuyên xưng, và sống kinh nghiệm ấy trong con người của mình.
Ngày kia, người ta đưa tôi tham quan hệ thống nhà máy thủy điện đồ sộ tại Itaipu ở Paraguay, thật là choán ngợp! Người và xe vận tải nhỏ như con kiến, trước giàn bê tông khổng lồ của các đập ngăn nước. Mức sản xuất điện năng của nhà máy này nhiều đến nỗi có thể cung cấp điện cho cả nước và một phần nhu cầu của Brésil và Argentina.
Lúc đêm đến, trên đường về, tôi để ý những căn nhà của công nhân đập thủy điện không có điện sáng, mà chỉ thắp bằng đèn cầy nhỏ xíu. Cách những máy điện khổng lồ nhất thế giới có mấy thước, người ta vẫn không có điện để thắp, mà chỉ có đèn cầy! Vì đường dây cần thiết để đem đến các ngôi nhà của họ chưa được thiết lập.
Đối với chúng ta, đôi khi cũng vậy. Đời sống chúng ta đáng lý ra phải được chiếu sáng bởi đèn điện, nhưng chỉ có đèn cầy, bởi chúng ta không nối dây liên kết với Chúa Yêsu là sự sáng thế gian. Có những người phục vụ trong Hội Thánh mà không có ánh sáng trong lòng họ.
Chúng ta giống như khách du lịch trước cảnh đẹp, dùng máy Polaroid để chụp hình lấy ngay, rồi sau đó xem hình bằng giấy, thay vì ngắm cảnh thật, để say sưa thưởng thức cái đẹp.
Có nhiều Kitô hữu giữ tượng ảnh bất động của Chúa Yêsu, mà lại không biết Ngài “diện đối diện”; vì họ chưa bao giờ được đích thân gặp Ngài. Họ chỉ biết lặp lại những gì họ đã nghe, nhưng không có kinh nghiệm sự sống mới.
“Sự sống đời đời là nhận biết” (Yn 17,3), nghĩa là có kinh nghiệm về Thiên Chúa, và Đấng mà Người đã sai đến là Đức Yêsu Kitô.
Người rao giảng đích thực là người trình bày lời chứng bản thân, kinh nghiệm của chính bản thân mình đã được cứu độ, và có thể làm chứng là Chúa Yêsu đang sống, bởi vì người đó đã gặp gỡ đích thân với Chúa Yêsu, như các Tông Đồ đã đoan chứng:
“Chúng tôi không thể không nói về những gì chúng tôi đã thấy và đã nghe” (Cv 4,42).
Người loan Tin Mừng thật không phải là người nói về Chúa Yêsu, nhưng là người có khả năng giới thiệu Chúa Yêsu cho những người nghe, để họ cũng nói như những người xứ Samari:
“Không còn phải vì câu chuyện của chị nói mà chúng tôi tin, vì chính chúng tôi cũng đã nghe và chúng tôi biết: thật Ngài là Đấng Cứu Thế!” (Yn 4,42).
Nhưng không ai có thể truyền đạt sự sống của Chúa Kitô sống lại, nếu trước đó, người ấy không có kinh nghiệm về Chúa Yêsu đang sống ngày hôm nay.
CHÚA YÊSU ĐANG SỐNG
Trong suốt tháng 6 năm 1981, sau một vòng đi giảng tại Algérie và Maroc, Chúa cho tôi được diễm phúc đến viếng Thánh Địa.
Sau ngày đến Thánh Địa, tôi dậy trước khi mặt trời mọc và đi vào các con đường nhỏ cổ kính, khúc khuỷu trong thành phố Yêrusalem và dọc theo con đường mà Maria Mađalêna đã đi đến mồ ngày Chúa sống lại.
Khi đến Mồ Thánh, tôi gặp một người bạn Mêhicô, trước kia đã cưới một cô vợ đẹp người Porto Rico tại Cana. Bước vào trong mồ, anh ta chỉ cho tôi thấy một bảng ghi bằng tiếng Hy Lạp:
“Sao các người đi tìm người sống trong kẻ chết? Ngài không có ở đây, Ngài đã sống lại” (Lc 24,6).
Nay, tôi cũng chưa hết sững sờ về buổi sáng hôm đó, đã như dội lại trong tôi quang cảnh ngày Chúa Phục Sinh. Từ bóng tối của chiếc mồ trống, đã rọi ra một ánh sáng chiếu soi mọi người để khởi đầu một tạo thành mới.
Nếu Chúa Yêsu không có trong mồ trống tại Yêrusalem, thì chắc chắn Ngài đang ở trong khắp thế gian. Chỉ có một chỗ độc nhất trên mặt đất này mà Chúa Yêsu không có mặt, là cái mồ đẽo đục trong đá do người bạn của Chúa – ông Giuse Arimathia – đã cho Chúa mượn xưa kia.
Chúa Yêsu không sai các môn đệ đi dạy lý thuyết hay những tư tưởng trừu tượng, nhưng sai đi để làm chứng về những gì đã thấy và đã nghe. Khốn nỗi, hình như chúng ta chỉ lo lắng dạy đạo lý hơn là thông truyền sự sống. Để được lớn lên trong sự sống Thiên Chúa, trước hết, ta phải được sinh ra bởi quyền lực Thánh Thần.
Một sứ giả Tin Mừng, trước tiên, phải là một chứng nhân có một kinh nghiệm cá nhân về sự chết và Phục sinh của Chúa Yêsu Kitô, và là người truyền đạt cho kẻ khác, không chỉ một đạo lý, mà về một Đấng-Vẫn-Sống và đang ban sự sống dồi dào. Sau đó – chỉ sau đó và luôn luôn sau đó – người ta mới dạy giáo lý và luân lý. Đôi khi, chúng ta làm cho người ta tuân giữ các điều răn Thiên Chúa, trước khi họ biết được vị Thiên Chúa của các điều răn. Chúng ta không nên quên rằng: mười điều răn được Thiên Chúa trao cho Môsê, sau khi đã tỏ mình ra trên núi Sinai.
Không ai có thể trở thành sứ giả đích thực của Tin Mừng, nếu người đó không có kinh nghiệm đời sống mới mà Chúa Yêsu ban cho. Khi chúng ta làm chứng được những gì Chúa Yêsu đã làm từ sau khi sống lại, thì lúc ấy mọi sự đều được đổi khác. Lời rao giảng sẽ được kèm theo dấu lạ điềm thiêng như Chúa đã hứa.
Tại Janico, một ngày kia, cha xứ mời chúng tôi giảng cấm phòng. Ngài báo trước là giáo dân ở đây rất cứng lòng và không thích đi nhà thờ. Buổi chiều đầu tiên chúng tôi đến, người tham dự buổi tĩnh tâm rất ít. Nhưng thấy có một người đàn ông nằm xoải trên nền nhà, trông như một búp bê bằng vải không thể đứng trên hai chân. Ông ta bị bại hai chân và tay, không thể ăn uống hoặc đi đứng một mình được. Thật là thảm thương! Tôi nghĩ trong lòng: “Tại sao người ta đưa ông này đến đây làm gì vậy?”. Khi nhìn lại hình dáng thảm hại của ông ta, tôi bèn nói:
- Chúng ta hãy cầu nguyện cho người đàn ông này, để chốc nữa, anh em sẽ dẫn đưa ông ta đi cùng với anh em!
Lúc khởi sự cầu nguyện, ông ta bắt đầu toát mồ hôi và run rẩy. Thấy vậy, tôi hồi tưởng lại, chính tôi đã cảm thấy nóng ran khi Chúa chữa tôi. Tôi liền nói với ông ta:
- Hãy chỗi dậy! Chúa đang chữa ông đấy!
Ngay lúc ấy, tôi cầm tay ông ta và truyền ông ta bước đi. Ông ta đi tới Nhà Tạm, ở đó, ông ta làm chứng là đã không đi đứng được từ 19 năm nay.
Tôi nghĩ bụng: “May mà tôi không biết là ông ta bị bại liệt tứ chi đã từ lâu…; nếu biết, tôi đã không dám bảo ông ta đứng dậy”. Trưa hôm đó, sau khi tất cả mọi người đều ra khỏi nhà thờ, chúng tôi băng qua đường đến ngồi ở bậc tam cấp. Vừa ngồi xuống, ông ấy nói với chúng tôi:
- Chúa cũng đã chữa lành cả đôi tay tôi nữa. Tôi có thể ngó ngoáy được…
Việc ông bại xuội này được loan ra. Ngày hôm sau, phòng họp chúng tôi đầy ắp người. Nhiều người đứng đằng sau cửa sổ và cửa nhà thờ.
Ngày nào chúng tôi đón nhận quyền năng của Chúa qua các lời chứng, ngày ấy, lời rao giảng của chúng tôi đổi khác hẳn.
Trước kia, tôi dọn bài giảng rất kỹ lưỡng, tôi học hỏi các nhà văn cổ điển và đọc sách thần học cận đại. Các điều tôi đọc trong sách rất hay và sâu sắc, đến nỗi tôi không muốn để mất những gì tôi thu lượm được, tôi muốn đem hết các điều ấy ra giảng. Cho nên tôi biên tất cả trên giấy rồi đọc lại, để có thể hưởng nguồn phong phú đó mà tôi muốn truyền đạt lại.
Ngay trong vấn đề này, Chúa cũng đã thay đổi tôi. Một Chúa Nhật nọ, tôi đang ngồi trước bài giảng dọn kỹ lưỡng bằng những ý tưởng thu lượm ấy, thì Chúa nói với tôi:
- Nếu con là người đã từng học bao năm, từng đọc bao nhiêu sách, mà chưa đủ khả năng ghi những điều ấy vào trí nhớ, để chốc nữa đem ra lập lại cho người khác nghe; thì làm sao con lại muốn cho những người đơn sơ, chất phác này chưa hề được tập luyện như con, lại có thể ghi nhớ những điều đã nghe để thực hành trong cuộc sống?
Từ đó, tôi thay đổi cách giảng dạy, tôi chỉ còn làm chứng cho quyền phép của Thiên Chúa và những gì Người đang làm, và tôi kể lại những việc của Tình yêu Thiên Chúa.
Tôi còn học được thêm một điều quan trọng: điều cần thiết là không phải nói hay về Chúa Yêsu, nhưng là để mặc Ngài, để mặc cho tất cả quyền năng của Thánh Thần. Tại sao phải nói về Chúa Yêsu một cách tuyệt vời, đang khi chúng ta chỉ cần để cho Người hành động qua chúng ta? Nước Thiên Chúa là quyền năng và sức mạnh đến từ trời cao và tỏ hiện giữa chúng ta.
Một lần nữa, tôi giảng lâu lắm, hơn một tiếng đồng hồ. Giảng xong, một linh mục đến gần tôi, vẻ bực tức, chỉ vào đồng hồ và nói với tôi:
- Tôi không ưa bài giảng của cha; vì trong 67 phút, cha toàn nói đến phép lạ và phép lạ, mà không ám chỉ đến phép lạ nào trong Phúc Âm cả.
Một người khác nghe vậy liền đáp:
- Tại sao phải nói về những phép lạ đã xảy ra cách nay 2.000 năm, nếu người ta có thể nói về những phép lạ mà Chúa Yêsu mới làm tuần trước?
Phần tôi, với những năm tháng còn lại của đời tôi, tôi không đủ để kể lại những gì Chúa đã làm trong 10 năm qua; những việc lạ lùng Chúa đã làm thật vô số kể. Cho nên, khi tôi chỉ có một tiếng đồng hồ, tôi nguyện kể lại những phúc lành mới được Chúa ban cho.
Tôi đã giảng dạy khắp năm châu và chỉ nói có bấy nhiêu sự, vì tôi không còn gì để nói ngoài lòng thương xót của Thiên Chúa. Tôi là chứng nhân Tình Yêu Thiên Chúa đối với loài người, đối với mọi người, mọi nước và mọi ngôn ngữ. Quyền năng của Thánh Thần đã biến tôi thành chứng nhân của Đức-Kitô-đang-sống.
Nhiều khi, không còn thời giờ để dùng bữa nữa. Sau những ngày giờ đi đường xa, tuy rất mệt nhọc, chúng tôi đã phải bắt đầu làm việc ngay, nhưng Chúa tỏ rỏ sức mạnh của Ngài qua sự yếu đuối của chúng tôi.
Trong kỳ tĩnh tâm tại Lộ Đức, nước Pháp, có những linh mục từ các nước châu Âu đến. Thật rất mệt nhọc, vì sau khi giảng, lại phải ngồi giải tội, rồi lại giảng hoặc cử hành Thánh Lễ.
Sau một bài giảng nọ, có một vài linh mục đến xưng tội. Vị thứ nhất là một linh mục Hòa Lan. Ông ta nói tiếng Pháp không rành, sau khi xưng tội, ông hỏi tôi:
- Cha có thể cầu nguyện cho tôi lành bệnh “câm” tai trái không?
Tôi suýt phì cười, vì câu nói ngộ nghĩnh của ông: “Tôi bị câm tai trái”… Tôi thưa với Chúa:
- Lạy Chúa, nếu Chúa chữa người này, thì sẽ là một việc chữa bệnh lớn nhất thế giới.
Còn tôi, tôi chỉ đợi ông ấy đi ra, để tôi có thể cười thỏa thích; nhưng liền sau đó, một linh mục khác vào và thấy tôi đang cười, vì tôi không quen nổi câu nói “câm tai trái”, và tôi đã cười suốt thời gian ngồi giải tội. Do đó, các linh mục nói với nhau về tôi:
- Cha Emiliano thật là vui sướng! Tuy phải làm nhiều việc, nhưng cha luôn vui vẻ.
Những linh mục khác nói:
- Thật là dễ chịu khi xưng tội với một linh mục luôn tiếp đón chúng ta bằng nụ cười.
Chúa dùng linh mục “câm tai trái” này, để tỏ cho tôi thấy Ngài là Chúa của niềm vui, và Ngài rất hài lòng tiếp đón chúng ta đến gần Ngài. Thiên Chúa chúng ta rất hóm hỉnh, điều đó không thể nghi ngờ.
Ngày kia, lúc tôi giảng cho một đám đông dân chúng trong một sân vận động, một người đến hỏi tôi:
- Cha không sợ, không nhút nhát khi giảng trước một cử tọa lớn như vậy ư?
- Khi chắc chắn là mình truyền đạt một Tin Mừng, thì người ta có thể leo lên mái nhà, làm chứng trong các trại giam và giảng trong các sân vận động. Tôi, tôi đã làm chứng về những gì tôi đã thấy. Nếu không, nói thật với anh em là tôi rất ngán nói.
Khi chúng ta không có kinh nghiệm về Chúa Kitô đang sống, thì chúng ta phải nói về muôn ngàn chuyện, trừ ra nói về Chúa Yêsu, cái đó mới là đáng ngán.
Ngày nay, chúng ta không cần một Phúc Âm mới, nhưng cần phải rao giảng Phúc Âm một cách mới, một lối giảng mới, là tuyên xưng cách mạnh mẽ và hữu hiệu rằng: Chúa Kitô đang sống. Không phải là lặp đi lặp lại những lý thuyết mà chúng ta đã nghe và đã đọc, nhưng là đưa ra những chứng từ của chínnh chúng ta. Ngày nay, chúng ta phải rao giảng Tin Mừng bằng quyền uy của Thánh Thần, với những dấu lạ và điềm thiêng – vốn là những việc bình thường trong cuộc rao giảng Tin Mừng.
Tại Đại hội Montréal tháng 6 năm 1977, có hơn 65.000 người đến đầy sân vận động Điền kinh dự lễ bế mạc. Hiện diện có Đức Hồng Y Roy, 6 giám mục và 920 linh mục, có cả ông Thị Trưởng thành phố, và gần bàn thờ, có hơn 100 bệnh nhân ngồi trên xe lăn của họ.
Chúng tôi hướng dẫn việc cầu nguyện cho bệnh nhân. Tất cả sân vận động vang tiếng ca ngợi Chúa. Bỗng nhiên, một phụ nữ, tên Rose Aimée, mắc chứng ngạch kết đã 11 năm, đứng dậy và bắt đầu bước đi trước mặt mọi người. Chỗ khác, một người, rồi một người nữa tiếp theo, mười hai người liệt bật đứng dậy, ra khỏi xe lăn và bắt đầu bước đi.
Dân chúng vỗ tay và khóc vì quá cảm động. Ông Thị Trưởng cũng khóc như con nít. Khi Chúa tỏ mình ra, không còn có ai là lớn cả, tất cả đều là nhỏ bé. Ông ta khóc vì sung sướng và cảm động.
Hôm sau, tờ báo chính của thành phố đăng tin: “Điều lạ lùng, kinh ngạc tại sân Vận Động Điền kinh: người què đi được”. Tờ báo Montréal ghi: “Những người nằm bệnh trên giường chỗi dậy và đi”. Việc bệnh nhân được chữa lành là một điều không đáng ngạc nhiên, điều đáng ngạc nhiên là nếu họ không được chữa lành. Thật vậy, nếu Chúa Yêsu không giữ lời hứa, ấy mới là kỳ!
Ngày hôm sau, người ta phỏng vấn tôi trên truyền hình:
- Ông có nghĩ rằng các việc chữa lành này là do động lực của đám đông, do cảm xúc, do tiếng hoan hô, vỗ tay của dân chúng không?
Tôi đáp:
- Nếu như vậy, thì xin ông hãy cắt nghĩa cho tôi, tại sao ở bất cứ trận đấu banh nào, lại không hề thấy một người què nào đứng dậy đi được, hay một người bệnh ung thư nào được lành, khi cả đấu trường bùng vỡ lên giữa những tiếng vỗ tay, hoan hô cuồng nhiệt chúc mừng cuộc thắng trận đấu?
Lời giải đáp duy nhất, đó là Đức Yêsu đã sống lại, và Ngài đang sống giữa chúng ta. Đừng tìm câu giải thích nào khác, vì luôn luôn ta sẽ sai lạc.
Chương trình của Chúa lắm lúc làm tôi bật cười. Ngài rất hóm hỉnh, chẳng hạn khi Ngài đặt một linh mục nhà quê đứng giảng Tin Mừng, trước mặt các nhà thần học từ nhiều nước tụ đến. Tôi chẳng dạy họ cái gì cả. Tôi chỉ có việc làm chứng cho họ về tình thướng xót của Trái Tim Chúa Yêsu.
Năm 1981, tôi giảng cấm phòng cùng với cha Albert de Monléon cho 320 linh mục tại Lisieux, nước Pháp; trong số này, có nhiều linh mục rất thông thái, một số rất nặng óc bình luận, và cũng không thiếu những vị có tính hoài nghi.
Sau một bài giảng thuyết tuyệt diệu của cha Monléon, thì đến phiên tôi giảng. Tôi cảm thấy nhỏ bé trước mặt những người quá thông thái, với đầy đủ các văn bằng và chức tước. Tôi cảm thấy nghèo nàn trước mặt Đức Hồng Y Suenens và các Giám Mục khác. Bởi đó, tôi cầu nguyện với Chúa rằng:
- Lạy Chúa, một linh mục từ một đảo nhỏ xíu như con đến đây, thì làm được cái gì trước mặt những người thông thái này? Và có thể các vị ấy cũng chẳng biết hòn đảo nhỏ của con nằm ở đâu. Xin đừng để con một mình, Chúa ơi!
May sao, đêm đầu tiên, Chúa chữa lành một linh mục bị đau viên tĩnh mạch; nhờ đó, mọi cuộc tranh luận đều chấm dứt. Sáng hôm sau, trong phòng cơm, ông ta vén ống quần lên và chỉ cho thấy hai chân được khỏi hoàn toàn. Bằng chứng này đã biểu thị vinh quang Thiên Chúa, hơn cả những bài diễn thuyết nghèo nàn của tôi.
Tai Lyon, sau một bài giảng của tôi cho hàng giáo sĩ, Đức Hồng Y Renard rất đỗi ngạc nhiên bởi những việc chữa lành kỳ diệu của Chúa. Ngài đứng dậy nói:
- “Đối với chúng ta, chấp nhận hành động mầu nhiệm của Chúa Thánh Thần là điều rất khó, bởi vì chúng ta duy lý. Nhiều hay ít gì, tất cả chúng ta là con cháu Descartes, và ngay cả Voltaire nữa. Bởi đó, chúng ta khó nhận ra được hoạt động của Thần Khí. Ngài muốn thổi đâu thì thổi như ý Ngài muốn, mà không bị giới hạn vào khuôn phép lý luận của lý trí chúng ta. Chúng ta đặt đường rầy buộc Ngài phải theo, nhưng Ngài bay vượt khỏi đó; chúng ta đưa cho Ngài ống dẫn hơi để Ngài có thể thổi qua đó, nhưng Ngài lại thổi bên cạnh. Thần Khí không theo chương trình mục vụ của chúng ta.
“Chắc chắn, chúng ta cần có một phương pháp mục vụ, nhưng căn bản của mọi việc huấn luyện đức tin chính là nhận ra điều này: không phải chúng ta điều khiển hành động chúng ta. Mọi phương pháp cần phải mềm dẻo đủ để Thần Khí có thể sử dụng, và hơn nữa, có thể biến đổi nó.
“Ân tứ của Thánh Thần thì khác nhau, và hiện tại có thể vì óc duy lý hoặc thiếu lòng tin, chúng ta tưởng các ân tứ đó là chuyện đời xưa.
“Người thời nay tìm kiếm những người có Thần Khí, những tiên tri có Thánh Thần soi sáng; nhưng nếu họ không tìm ra, họ sẽ chạy theo những kẻ thần khải giả hiệu; đó là điều rất nguy hiểm.
“Giáo Hội là một lễ Hiện xuống, chứ không phải là một sự duy lý trường kỳ.”
Những câu cuối cùng này của Đức Hồng Y nhắc tôi nhớ lại một giai thoại không có trong Phúc Âm. Một ngày kia, Chúa Yêsu đang ở với các môn đồ, Ngài hỏi họ rằng:
- Còn các con, các con nói ta là ai?
Simon Phêrô đứng dậy đáp:
- Thầy là sự hiển linh cánh chung, nuôi dưỡng trên bình diện hữu thể, cho xu hướng tính của những mối quan hệ tiềm thức và liên vị của chúng con.
Chúa Yêsu mở to mắt ra và hết sức ngạc nhiên:
- Sao, con nói gì vậy?
Và Phêrô không thể lặp lại được, vì ông đã quên ngay cái định nghĩa mà ông vừa nói ra. Vì điều đó không phải là cái ông có trong tim, nhưng chỉ có trong óc mà thôi.
Người đời chán nghe các lý thuyết và những thi phú văn hoa. Họ đói khát những lời sự sống và hữu hiệu. Đức Giáo Hoàng Phaolô VI nói:
“Thế giới này đã quá mệt mỏi vì phải nghe nhiều thầy, họ chỉ bị lôi cuốn bởi các chứng nhân”. Những chứng nhân là người có kinh nghiệm về đời sống mới do Chúa Yêsu ban cho.
Phúc Âm Thánh Luca kể rằng: chiều Chúa Nhật Phục Sinh, hai môn đồ Chúa từ Yêrusalem trở về Emmau. Họ buồn và chán nản, bởi Thầy họ đã chết, thì tất cả hy vọng khôi phục nước Israel của họ đều tan thành mây khói.
Chúa Yêsu đích thân đến với họ trên đường đi, và một trong hai ông, tên Clêopha, bắt đầu giảng một khóa Kitô cho Chúa Yêsu, mà ông ta không nhận ra được. Ông ta nhắc lại rành mạch từng việc làm, từng phép lạ, và từng lời Ngài nói. Ông ta kể lại cái chết thê thảm của Chúa trên thập giá mà toàn dân đã chứng kiến; nhưng kể đến chỗ Chúa sống lại, thì ông ta không thể nói kinh nghiệm của mình ra, chỉ biết lặp lại những gì các phụ nữ nói rằng: “Thiên thần đã nói…”
Cũng vậy, trong Giáo Hội, một số giảng viên chỉ lặp lại những gì các nhà thần học đã viết, hoặc những gì mà họ đã học được qua các trường lớp, nhưng chính họ lại chẳng có kinh nghiệm cá nhân nào về sự Phục Sinh của Chúa Yêsu Kitô.
Khi chính cá nhân ta chưa đích thân gặp Chúa Yêsu Kitô Phục Sinh, ta chỉ lặp lại những lý thuyết hoặc lời dạy của kẻ khác. Chúng ta được gọi làm chứng về những gì chúng ta giảng dạy, nhưng để trở thành một chứng nhân đích thực, cần phải có kinh nghiệm bản thân và những điều mình tuyên xưng, và sống kinh nghiệm ấy trong con người của mình.
Ngày kia, người ta đưa tôi tham quan hệ thống nhà máy thủy điện đồ sộ tại Itaipu ở Paraguay, thật là choán ngợp! Người và xe vận tải nhỏ như con kiến, trước giàn bê tông khổng lồ của các đập ngăn nước. Mức sản xuất điện năng của nhà máy này nhiều đến nỗi có thể cung cấp điện cho cả nước và một phần nhu cầu của Brésil và Argentina.
Lúc đêm đến, trên đường về, tôi để ý những căn nhà của công nhân đập thủy điện không có điện sáng, mà chỉ thắp bằng đèn cầy nhỏ xíu. Cách những máy điện khổng lồ nhất thế giới có mấy thước, người ta vẫn không có điện để thắp, mà chỉ có đèn cầy! Vì đường dây cần thiết để đem đến các ngôi nhà của họ chưa được thiết lập.
Đối với chúng ta, đôi khi cũng vậy. Đời sống chúng ta đáng lý ra phải được chiếu sáng bởi đèn điện, nhưng chỉ có đèn cầy, bởi chúng ta không nối dây liên kết với Chúa Yêsu là sự sáng thế gian. Có những người phục vụ trong Hội Thánh mà không có ánh sáng trong lòng họ.
Chúng ta giống như khách du lịch trước cảnh đẹp, dùng máy Polaroid để chụp hình lấy ngay, rồi sau đó xem hình bằng giấy, thay vì ngắm cảnh thật, để say sưa thưởng thức cái đẹp.
Có nhiều Kitô hữu giữ tượng ảnh bất động của Chúa Yêsu, mà lại không biết Ngài “diện đối diện”; vì họ chưa bao giờ được đích thân gặp Ngài. Họ chỉ biết lặp lại những gì họ đã nghe, nhưng không có kinh nghiệm sự sống mới.
“Sự sống đời đời là nhận biết” (Yn 17,3), nghĩa là có kinh nghiệm về Thiên Chúa, và Đấng mà Người đã sai đến là Đức Yêsu Kitô.
Người rao giảng đích thực là người trình bày lời chứng bản thân, kinh nghiệm của chính bản thân mình đã được cứu độ, và có thể làm chứng là Chúa Yêsu đang sống, bởi vì người đó đã gặp gỡ đích thân với Chúa Yêsu, như các Tông Đồ đã đoan chứng:
“Chúng tôi không thể không nói về những gì chúng tôi đã thấy và đã nghe” (Cv 4,42).
Người loan Tin Mừng thật không phải là người nói về Chúa Yêsu, nhưng là người có khả năng giới thiệu Chúa Yêsu cho những người nghe, để họ cũng nói như những người xứ Samari:
“Không còn phải vì câu chuyện của chị nói mà chúng tôi tin, vì chính chúng tôi cũng đã nghe và chúng tôi biết: thật Ngài là Đấng Cứu Thế!” (Yn 4,42).
Nhưng không ai có thể truyền đạt sự sống của Chúa Kitô sống lại, nếu trước đó, người ấy không có kinh nghiệm về Chúa Yêsu đang sống ngày hôm nay.
CHÚA GIÊSU ĐANG SỐNG(Chương IV)
Chương IV: LỜI THÔNG TRI
Những năm gần đây, người ta nói nhiều về lời trí tri, mà dịch sát nghĩa hơn, một số người gọi là “lời thông tri”.
Đó là đặc sủng rất cao quý, nhờ đó, Thiên Chúa mạc khải, thông truyền điều đã xảy ra hay đang xảy ra trong lịch sử cứu độ loài người. Nhờ mạc khải này, ta có thể khám phá nguồn gốc của một vấn đề, nguyên nhân của một bế tắc, hoặc có thể biết được một việc Chúa chữa lành.
Một hôm, có một bà đến, bộ dạng rất âu sầu, vì con gái bà mắc một chứng bệnh khác lạ, khiến nó phải bỏ học. Theo lời bà kể, cô ấy thường lên cơn kỳ lạ: dễ bịngất xỉu, y như thể động kinh. Họ đã đưa đi nhiều bác sĩ mà không có kết quả nào. Họ đến nhờ các nhà chuyên môn về tâm bệnh, cũng chẳng khá hơn. Họ còn dại dột đi đến hỏi đồng cốt và thầy pháp. Chính lúc ấy, họ thấy nhất định phải nhờ đến việc trừ quỷ.
Bà mẹ thì nói, còn cô gái cứ im miệng. Cô cũng không màng trả lời những câu hỏi của tôi. Không biết rõ căn bệnh, và cũng không biết xin Chúa cho cô sự gì, tôi cầu nguyện trong tiếng lạ. Chính lúc ấy, xảy đến một lời nói cứ đập mãi vào trí óc tôi:
- Phá thai! Phá thai!
Mở mắt ra, tôi hỏi cô đã có liên can chút gì đến việc phá thai không.
Ngạc nhiên, cô hỏi;
- Ai nói với cha điều đó?
Thế là cô khóc, kể lại cho tôi: cô đã quan hệ xác thịt với một thanh niên là vịhôn phu của cô và đã có thai. Vì thuộc một gia đình được nhiều người biết đến, nên cô sợ hãi và đã quyết định phá thai. Song từ đó, cô đã chất lên lương tâm hai tội nặng, cho nên, mỗi khi nhớ đến, cô lại ngất xỉu…
Thế rồi cô sám hối, xưng tội, và chúng tôi đã cầu nguyện để Chúa chữa lành tâm hồn cô. Chúa đã tha thứ và chữa cô lành, không còn ngất xỉu nữa. Như thế, Chúa đã “thông tri” cho chúng ta biết gốc rễ của vấn đề: cô gái không phải bịquỷ ám, không bịthứ bệnh nào khác cả.
Qua ơn “thông tri” hay “lời trí tri” ấy, Thiên Chúa còn bày tỏ cho biết Người đang làm việc chữa lành nào giữa cộng đồng. Thế là điều Chúa đang thực hiện ấy được thông báo cho cả cộng đồng.
Năm 1975, tôi đắc cử làm đại biểu cho Cộng Hòa Đôminicana đi dự đại hội II của những nhà lãnh đạo cuộc Canh Tân Đặc Sủng ở Rôma. Khi tôi thông tin cho các Bề Trên tôi, họ bảo:
- Cha hãy nhường chỗ ấy cho người khác, vì tốt hơn, nên để một người bản xứ đại diện cho xứ sở họ.
Tôi rất cực lòng khi phải chấp nhận điều ấy, vì nghĩ rằng tôi bỏ lỡmột cơ hội tốt, để được hiểu cuộc Canh Tân hơn. Với lòng tin, tôi thấy đó là ý muốn của Thiên Chúa, qua quyết định của Bề Trên.
Hôm mà đáng lẽ tôi đáp máy bay đi Rôma, tôi cỡi ngựa đi thăm một cộng đoàn ở sâu tít trong miền núi. Tôi đã dâng Thánh Lễ và cầu nguyện cho bệnh nhân. Đang khi cầu nguyện trong tiếng lạ, một câu nói cứ văng vẳng trong trí tôi:
- Động kinh! Động kinh!
Tôi tiếp tục cầu nguyện, rồi thinh lặng, và cuối cùng, với lòng tin, tôi đánh bạo hỏi rằng:
- ở đây, có ai đang bịbệnh động kinh không?… Chúa đang chữa bệnh cho người đó.
Một khoảnh khắc im lặng nặng nề, tôi tưởng chừng như một thế kỷ, rồi bà Hiệu Trưởng trường làng giơ tay nói:
- Thưa cha, có con gái của con, cha hãy nhìn coi!
Đó là một thiếu nữ chỉ độ 15 tuổi, đang run rẩy và đổ mồ hôi. Cô bịbệnh từ thuở sơ sinh. Song Chúa đã chữa lành hoàn toàn, cô không còn bịlên cơn bao giờ nữa.
Đó là lần đầu tiên Chúa ban cho tôi một lời trí tri. Ngày tôi vâng lời Bề Trên, Chúa đã ban cho tôi đặc sủng ấy; nó đã giúp ích cho chức vụ tôi ngàn lần, hơn là tất cả những bài giảng mà tôi có thể nghe được ở Rôma.
Lời trí tri là một đặc sủng của Thần Khí, nó gây ngạc nhiên cho ai sống kinh nghiệm ấy. Đó là sự thông truyền ra ngoài một xác tín bên trong. Xác tín này không do suy nghĩ hay lập luận mà có; nhưng nó như một ý tưởng xâm nhập tâm trí ta một cách mãnh liệt, nó xâm chiếm ta như một tiếng nói không có âm thanh, một lời nói tự bên trong của bản thân ta và cứ hiện diện trong trí ta.
Kết quả là chúng ta thấy chắc chắn về điều đó, dù biết rằng nó không phải do ta mà đến, nó đến ngang qua ta. Chắc chắn là điều có thật. Tôi nghĩ rằng tiên tri Nathan cũng đã có lời trí tri như vậy, khi ông khám phá ra tội kín ẩn của vua Đavít (2Sm 12,1-15). Thánh Phêrô cũng có lối xử trí tri ấy trong vụ Ananya và Saphira gian trá về tiền bán nhà đất (Cv 5,1-11). Lời trí tri hình như thuộc cùng cấp trật với lời tiên tri.
Trong một cuộc tĩnh tâm ở Samana, thuộc Cộng Hòa Đôminicana, đang khi tôi giảng, bỗng có một lời trí tri cứ lẩn quẩn trong trí tôi. Để được rảnh rang mà giảng cấm phòng tiếp, tôi ngừng nói và lên tiếng hỏi:
- ở đây có một anh đến dự buổi tĩnh tâm, để thắng cuộc với vợ mình. Vợ anh đã đánh cuộc rằng: nếu anh ta đến dự, anh phải thay đổi đời sống. Anh ta trả lời: “Tôi sẽ đi dự tĩnh tâm, nhưng sẽ không thay đổi gì cả”. Người ấy đang ở đây, và Chúa nói với anh là Ngài tôn trọng tự do của anh. Nhưng chỉ xin nhớ điều Thánh Augustinô đã nói: “Tôi sợ Thiên Chúa đi qua rồi không trở lại nữa”.
ở cuối nhà thờ, một người đàn ông cao lớn, khoẻ mạnh quỳ xuống và bắt đầu khóc. Sau Thánh Lễ, ông đến gặp linh mục và xác nhận tất cả những điều trí tri đã nói trên. Ông xưng tội và dâng đời mình cho Chúa, và ông nói tiếp:
- Thưa cha, nếu cha cần con làm việc gì, con xin sẵn sàng.
Vậy, lời trí tri là một ý tưởng rõ rệt đến trong tâm trí ta. Lúc ta thông báo ra ngoài, các chi tiết mới từ từ hiện ra rõ rệt.
Tôi tạm so sánh kinh nghiệm ấy với trò chơi tìm mật thư.(*) Tôi phải đọc mật thư thứ nhất chỉ đường, tìm mật thư thứ hai mà đọc thì được rõ hơn. Không thể nào hiểu được mật thư thứ ba, và cũng không đọc được nó nói gì nếu đã không đọc hai mật thư trước. Cũng thế, ta phải thông báo điều thứ hai và tức thì ta được biết điều thứ ba để bổ túc cho điều trước, và cứ thế mà hiện ra tuần tự các điều sau…
Làm thế nào nhận biết sự xác thực của một lời trí tri? Hoàn toàn chỉ căn cứ vào kết quả các lời chứng (mà người được khỏi sẽ nói lên). Đó là phương thế để biết lời trí tri có phải từ Thiên Chúa đến hay không.
Nhiều hoạt động mục vụ chỉ có kết quả, nếu chúng được hỗ trợ bởi các lời chứng: chẳng hạn như thông báo những vụ chữa lành bằng lời trí tri, những vụ lành này không được xác nhận bởi các lời chứng, điều ấy đáng khả nghi, và có thể còn gây cớ cho việc chỉ trích hơn là dịp ngợi khen Chúa.
Tháng 11 năm 1982, tôi đi giảng một loạt những cuộc tĩnh tâm ở Polinesi, thuộc địa nước Pháp. Người ta chuẩn bịmột Thánh Lễ dành cho bệnh nhân ngay tại Tòa Tổng Giám Mục Tahiti. Chiều hôm ấy, có hơn 5.000 người đến dự, vòm trời đầy sao làm tôi nhớ tới lời hứa của Chúa cho Abraham.
Sau rước lễ, tôi dâng một lời nguyện cho bệnh nhân. Tất cả đám dân ấy cầu nguyện bằng tiếng lạ. Thật là một thời khắc vô cùng sốt sắng và đầy niềm tin! Đang khi Thần Khí ca ngợi trong chúng tôi, những lời trí tri bắt đầu thành hình. Những thông điệp ấy loan báo dễ dàng nhờ sự cầu nguyện bằng tiếng lạ, vì tâm trí người cầu nguyện bằng tiếng lạ không phải bận rộn suy nghĩ xem phải nói gì, nên sẵn sàng đón nhận lời Chúa truyền ra. Trong số những lời trí tri ấy, có một lời làm tôi ngạc nhiên, vì nó thật đích xác. Tôi thông truyền ra đúng như nó diễn ra trong trí:
- ở đây có người dự Thánh Lễ đầu tiên. Người ấy đến từ rất xa. Bà đang đau cột xương sống, vào khoảng đốt thứ 4. Cơn bệnh này là do một quả dừa rơi trúng. Giờ phút này, một luồng khí nóng đang xâm chiếm lưng bà. Chúa đang chữa lành bạn đấy! Khỏi rồi, bạn sẽ làm chứng cho mọi người biết.
Hôm sau, chúng tôi lại có một Thánh Lễ như thế. Số người tham dự đã tăng thêm. Hôm ấy, chúng tôi đã sống một kinh nghiệm không bao giờ quên về quyền phép và lòng thương xót của Chúa. Trước khi kết thúc, chúng tôi xin những ai đã được chữa lành hôm qua lên làm chứng. Và chúng tôi đã được nghe những lời chứng thật tuyệt vời. Trong số đó, có chứng của một bà. Bà ấy nói:
- “Tôi theo đạo Tin Lành từ nhỏ. Chưa bao giờ tôi dự một Thánh Lễ Công giáo, cho đến ngày hôm qua… Vì tôi bịđau cột xương sống nặng, nên khi nghe biết Chúa đã chữa lành nhiều bệnh nhân trong Thánh Lễ hôm trước, tôi bịthuyết phục bởi lời của một bà bạn mà đến đây hôm qua, để xin Thiên Chúa chữa lành, dù tôi có phải trải qua một con đường dài mới đến đây được.
“Khi ông linh mục thông báo có người bịbệnh xương sống đang được chữa lành, tôi cảm thấy một luồng nhiệt rất mạnh nóng ran ở lưng tôi. Khi ông ấy nói thêm rằng đó là vào khoảng đốt thứ 4, tôi hiểu ngay đó là trường hợp của tôi. Nhưng điều làm tôi ngạc nhiên hết sức, đó là lúc ông nói rằng bệnh ấy phát sinh do một quả dừa rơi xuống.
“Quả thật, cách đây một năm rưỡi, lúc ấy, tôi bán nước dừa cho khách du lịch, tôi hái dừa bằng một cây sào, một trái dừa đã rơi trúng đốt xương sống thứ 4 của tôi. Lúc ấy, tôi đang có mang, bác sĩ khuyên tôi nên đợi sanh xong rồi sẽ mổ. Sau đó, ông lại bảo là không biết mổ thế nào, vì vôi đã hàn cứng các xương lại với nhau. Tôi rất đau, nhất là về đêm, ráng tìm một tư thế nào dễ chịu nhất trong giường để có thể ngủ được.
“Chiều qua, khi người tôi nóng ran và run rẩy, tôi đã khóc rất nhiều, tôi cảm thấy Chúa hiện diện mạnh mẽ trong tôi. Về nhà, tôi nhận thấy là tôi đã khỏi bệnh hoàn toàn. Bây giờ, tôi không còn một chút đau đớn nào ở cột sống, và tôi muốn tạ ơn Chúa cách công khai trước mặt mọi người.”
Cả tôi nữa, tôi cũng tạ ơn Chúa vì mọi chi tiết Ngài thông tri cho tôi đều đúng cả. Việc đó giúp tôi càng tin thêm lời trí tri, vốn là lời của Thần Khí đến với ta, và không phải như một cảm giác thể lý hay hiểu biết tâm lý, bởi vì các chi tiết đều quá chính xác, để không thể bảo đó là kết quả của tưởng tượng.
Trong trường hợp cụ thể này, tôi đã có thể dùng máy cát-xét để kiểm nghiệm lại lời chứng. Thâu băng thì thấy mọi chi tiết đều phù hợp với lời trí tri Chúa đã ban. Khi bà ấy làm chứng, mọi người đều ngợi khen Thiên Chúa, và lòng tin vào sự hiện diện cứ Chúa Yêsu Phục Sinh được tăng trưởng trong cộng đồng tín hữu.
Đó cũng là điều xảy ra với người phụ nữ Samari tại giếng Yacob, khi Đức Yêsu mặc khải cho chịta qua lời trí tri:
“Chịnói không có chồng là phải, vì chịđã có năm đời chồng, và người chịđang sống chung cũng không phải là chồng chị. Điều này quả chịnói thật!” (Yn 4,17-18).
Sau cuộc đàm thoại với Đức Yêsu, chịta bỏ vò nước đó, chạy vào thành mà nói với mọi người trong thành:
“Hãy đến mà xem có người đã nói được với tôi tất cả mọi sự tôi đã làm. Có phải Ngài là Đức Kitô chăng?” (Yn 4,29).
Như vậy, nhờ một lời trí tri mà cả dân thành Samari trở lại với Chúa. Cũng thế, nhờ đặc sủng của lời trí tri, cả cộng đồng đều được thêm sốt sắng, đức tin tăng trưởng và mọi người đều khen ngợi Chúa.
Một hôm, Đức Hồng Y Suenens bảo tôi viết một bài để giải thích làm sao lời trí tri đến với tâm trí ta. Tôi trả lời:
- Thưa Đức Hồng Y, con không làm sao giải thích được đặc sủng ấy. Việc ấy cũng khó như ngài bảo con viết một bài mô tả làm cách nào một sự chia trí đến với tâm trí mình vậy.
Mùa hè 1982, người ta xin tôi làm chương trình gồm 9 buổi phát hình về Canh Tân Đặc Sủng cho Đài CHOT ở Ottawa (Canada). Những chương trình dài nửa giờ ấy được ghi trên băng video-cassette, để sẽ được truyền đi vào cuối mùa thu. Trong một lời cầu nguyện cho bệnh nhân lần cuối cùng, tôi có vài lời trí tri loan báo việc Chúa đang chữa lành. Tôi nói như thế này:
- Ngay lúc này, có một người đang ở một mình trong bệnh viện. Anh ấy bịđau ở lưng, nhưng Chúa đang chữa anh khỏi. Anh cảm thấy một luồng khí nóng xâm chiếm lưng mình. Anh có thể đứng lên mà đi.
Khi về đến nhà, tôi mới nhớ là chương trình này không phát ngay lúc ấy, mà mấy tháng sau mới phát. Tôi đâm lúng túng và còn nghĩ:
- Có lẽ lúc này, chính người bệnh ấy cũng chưa vào nhà thương, thế mà tôi đã báo rằng anh khỏi bệnh nhân Danh Chúa.
Tôi cười thầm, vì thấy Thiên Chúa chúng ta thật hóm hỉnh.
Đến cuối tháng giêng, tôi nhận được một lá thư của ông B.G viết như sau:
“16 tháng giêng, 1983
“Vì mắc một cơn bệnh, tôi không thể tiếp tục làm việc: tôi có hai đốt xương sống trật khớp. Trịliệu và dưỡng sinh, tất cả đều không hiệu quả. Tháng 12 vừa rồi, tôi chịu một cuộc giải phẩu 4 tiếng, và nhờ đó cử động được chân phải. Chính ngày 9 tháng 12, ngày giải phẩu, đó là một thử thách ghê gớm cho tôi và gia đình tôi…
“Ngày 18 tháng 12, tôi nằm bệnh viện, cả tâm hồn lẫn thể xác đều kiệt quệ. Đức tin như đã chết trong tôi. Hồi 18 giờ 35 phút, tôi mở truyền hình, gặp lúc chương trình ‘Tình thương không biên giới’ sắp kết thúc, và chính lúc ấy cha nói:
- Một người, hiện đang ở một mình tại bệnh viện, đang đau lưng, và Chúa Yêsu đang bắt đầu chữa lành người ấy. Anh đang cảm nhận sự hiện diện cứ Chúa trong khắp cả con người anh. Sau này, anh sẽ làm chứng về sự lành bệnh này.
“Chương trình chấm đứt ở đây, còn tôi, mắt tràn lệ, tâm hồn cảm động sâu xa.
“Tôi tự nhủ: Làm sao Chúa Yêsu có thể kết hợp với trái tim đau thương, bịthất vọng ê chề và khép kín này? Nhưng chẳng phải Chúa đã hy sinh chịu chết cho những tâm hồn này sao?
“Hôm nay, một tháng sau sự việc ấy, tôi viết thư kể lại cho cha. Cuộc lành bệnh của tôi tiến triển rất tốt đẹp. Lần thứ nhất trong đời, tôi được nếm sự bình an của ơn tha thứ vô điều kiện.”
Cũng như ở Tahiti, mọi chi tiết của lời tiên tri đều xảy ra đúng. Chỉ có một chi tiết hơi khác, đó là Chúa đã thông báo cho tôi vào tháng 6, một việc chữa lành chỉ xảy ra vào ngày 18 tháng 12 sau đó; mà tôi thì ngay từ lúc ấy đã báo rằng “lúc này”.
Qua lời chứng ấy, tôi học được một điều quan trọng hơn nhiều: Chúa không hề bịhạn chế bởi thời gian… Ngài có thể ban một lời trí tri để báo trước một điều xảy ra sau. Khi nói: “Lúc này…”, Thiên Chúa không có đồng hồ, không có lịch. Ngài là Đấng-hiện-tại-vĩnh-hằng…
(*) Trong văn bản tiếng Pháp: “Cette expérience est semblable à celle de la lecture d’un message écrit sur des serviettes d’une boite de kleenex…”
Vì trò chơi này không có ở Việt Nam, chúng tôi tạm dịch như trên kia.
Những năm gần đây, người ta nói nhiều về lời trí tri, mà dịch sát nghĩa hơn, một số người gọi là “lời thông tri”.
Đó là đặc sủng rất cao quý, nhờ đó, Thiên Chúa mạc khải, thông truyền điều đã xảy ra hay đang xảy ra trong lịch sử cứu độ loài người. Nhờ mạc khải này, ta có thể khám phá nguồn gốc của một vấn đề, nguyên nhân của một bế tắc, hoặc có thể biết được một việc Chúa chữa lành.
Một hôm, có một bà đến, bộ dạng rất âu sầu, vì con gái bà mắc một chứng bệnh khác lạ, khiến nó phải bỏ học. Theo lời bà kể, cô ấy thường lên cơn kỳ lạ: dễ bịngất xỉu, y như thể động kinh. Họ đã đưa đi nhiều bác sĩ mà không có kết quả nào. Họ đến nhờ các nhà chuyên môn về tâm bệnh, cũng chẳng khá hơn. Họ còn dại dột đi đến hỏi đồng cốt và thầy pháp. Chính lúc ấy, họ thấy nhất định phải nhờ đến việc trừ quỷ.
Bà mẹ thì nói, còn cô gái cứ im miệng. Cô cũng không màng trả lời những câu hỏi của tôi. Không biết rõ căn bệnh, và cũng không biết xin Chúa cho cô sự gì, tôi cầu nguyện trong tiếng lạ. Chính lúc ấy, xảy đến một lời nói cứ đập mãi vào trí óc tôi:
- Phá thai! Phá thai!
Mở mắt ra, tôi hỏi cô đã có liên can chút gì đến việc phá thai không.
Ngạc nhiên, cô hỏi;
- Ai nói với cha điều đó?
Thế là cô khóc, kể lại cho tôi: cô đã quan hệ xác thịt với một thanh niên là vịhôn phu của cô và đã có thai. Vì thuộc một gia đình được nhiều người biết đến, nên cô sợ hãi và đã quyết định phá thai. Song từ đó, cô đã chất lên lương tâm hai tội nặng, cho nên, mỗi khi nhớ đến, cô lại ngất xỉu…
Thế rồi cô sám hối, xưng tội, và chúng tôi đã cầu nguyện để Chúa chữa lành tâm hồn cô. Chúa đã tha thứ và chữa cô lành, không còn ngất xỉu nữa. Như thế, Chúa đã “thông tri” cho chúng ta biết gốc rễ của vấn đề: cô gái không phải bịquỷ ám, không bịthứ bệnh nào khác cả.
Qua ơn “thông tri” hay “lời trí tri” ấy, Thiên Chúa còn bày tỏ cho biết Người đang làm việc chữa lành nào giữa cộng đồng. Thế là điều Chúa đang thực hiện ấy được thông báo cho cả cộng đồng.
Năm 1975, tôi đắc cử làm đại biểu cho Cộng Hòa Đôminicana đi dự đại hội II của những nhà lãnh đạo cuộc Canh Tân Đặc Sủng ở Rôma. Khi tôi thông tin cho các Bề Trên tôi, họ bảo:
- Cha hãy nhường chỗ ấy cho người khác, vì tốt hơn, nên để một người bản xứ đại diện cho xứ sở họ.
Tôi rất cực lòng khi phải chấp nhận điều ấy, vì nghĩ rằng tôi bỏ lỡmột cơ hội tốt, để được hiểu cuộc Canh Tân hơn. Với lòng tin, tôi thấy đó là ý muốn của Thiên Chúa, qua quyết định của Bề Trên.
Hôm mà đáng lẽ tôi đáp máy bay đi Rôma, tôi cỡi ngựa đi thăm một cộng đoàn ở sâu tít trong miền núi. Tôi đã dâng Thánh Lễ và cầu nguyện cho bệnh nhân. Đang khi cầu nguyện trong tiếng lạ, một câu nói cứ văng vẳng trong trí tôi:
- Động kinh! Động kinh!
Tôi tiếp tục cầu nguyện, rồi thinh lặng, và cuối cùng, với lòng tin, tôi đánh bạo hỏi rằng:
- ở đây, có ai đang bịbệnh động kinh không?… Chúa đang chữa bệnh cho người đó.
Một khoảnh khắc im lặng nặng nề, tôi tưởng chừng như một thế kỷ, rồi bà Hiệu Trưởng trường làng giơ tay nói:
- Thưa cha, có con gái của con, cha hãy nhìn coi!
Đó là một thiếu nữ chỉ độ 15 tuổi, đang run rẩy và đổ mồ hôi. Cô bịbệnh từ thuở sơ sinh. Song Chúa đã chữa lành hoàn toàn, cô không còn bịlên cơn bao giờ nữa.
Đó là lần đầu tiên Chúa ban cho tôi một lời trí tri. Ngày tôi vâng lời Bề Trên, Chúa đã ban cho tôi đặc sủng ấy; nó đã giúp ích cho chức vụ tôi ngàn lần, hơn là tất cả những bài giảng mà tôi có thể nghe được ở Rôma.
Lời trí tri là một đặc sủng của Thần Khí, nó gây ngạc nhiên cho ai sống kinh nghiệm ấy. Đó là sự thông truyền ra ngoài một xác tín bên trong. Xác tín này không do suy nghĩ hay lập luận mà có; nhưng nó như một ý tưởng xâm nhập tâm trí ta một cách mãnh liệt, nó xâm chiếm ta như một tiếng nói không có âm thanh, một lời nói tự bên trong của bản thân ta và cứ hiện diện trong trí ta.
Kết quả là chúng ta thấy chắc chắn về điều đó, dù biết rằng nó không phải do ta mà đến, nó đến ngang qua ta. Chắc chắn là điều có thật. Tôi nghĩ rằng tiên tri Nathan cũng đã có lời trí tri như vậy, khi ông khám phá ra tội kín ẩn của vua Đavít (2Sm 12,1-15). Thánh Phêrô cũng có lối xử trí tri ấy trong vụ Ananya và Saphira gian trá về tiền bán nhà đất (Cv 5,1-11). Lời trí tri hình như thuộc cùng cấp trật với lời tiên tri.
Trong một cuộc tĩnh tâm ở Samana, thuộc Cộng Hòa Đôminicana, đang khi tôi giảng, bỗng có một lời trí tri cứ lẩn quẩn trong trí tôi. Để được rảnh rang mà giảng cấm phòng tiếp, tôi ngừng nói và lên tiếng hỏi:
- ở đây có một anh đến dự buổi tĩnh tâm, để thắng cuộc với vợ mình. Vợ anh đã đánh cuộc rằng: nếu anh ta đến dự, anh phải thay đổi đời sống. Anh ta trả lời: “Tôi sẽ đi dự tĩnh tâm, nhưng sẽ không thay đổi gì cả”. Người ấy đang ở đây, và Chúa nói với anh là Ngài tôn trọng tự do của anh. Nhưng chỉ xin nhớ điều Thánh Augustinô đã nói: “Tôi sợ Thiên Chúa đi qua rồi không trở lại nữa”.
ở cuối nhà thờ, một người đàn ông cao lớn, khoẻ mạnh quỳ xuống và bắt đầu khóc. Sau Thánh Lễ, ông đến gặp linh mục và xác nhận tất cả những điều trí tri đã nói trên. Ông xưng tội và dâng đời mình cho Chúa, và ông nói tiếp:
- Thưa cha, nếu cha cần con làm việc gì, con xin sẵn sàng.
Vậy, lời trí tri là một ý tưởng rõ rệt đến trong tâm trí ta. Lúc ta thông báo ra ngoài, các chi tiết mới từ từ hiện ra rõ rệt.
Tôi tạm so sánh kinh nghiệm ấy với trò chơi tìm mật thư.(*) Tôi phải đọc mật thư thứ nhất chỉ đường, tìm mật thư thứ hai mà đọc thì được rõ hơn. Không thể nào hiểu được mật thư thứ ba, và cũng không đọc được nó nói gì nếu đã không đọc hai mật thư trước. Cũng thế, ta phải thông báo điều thứ hai và tức thì ta được biết điều thứ ba để bổ túc cho điều trước, và cứ thế mà hiện ra tuần tự các điều sau…
Làm thế nào nhận biết sự xác thực của một lời trí tri? Hoàn toàn chỉ căn cứ vào kết quả các lời chứng (mà người được khỏi sẽ nói lên). Đó là phương thế để biết lời trí tri có phải từ Thiên Chúa đến hay không.
Nhiều hoạt động mục vụ chỉ có kết quả, nếu chúng được hỗ trợ bởi các lời chứng: chẳng hạn như thông báo những vụ chữa lành bằng lời trí tri, những vụ lành này không được xác nhận bởi các lời chứng, điều ấy đáng khả nghi, và có thể còn gây cớ cho việc chỉ trích hơn là dịp ngợi khen Chúa.
Tháng 11 năm 1982, tôi đi giảng một loạt những cuộc tĩnh tâm ở Polinesi, thuộc địa nước Pháp. Người ta chuẩn bịmột Thánh Lễ dành cho bệnh nhân ngay tại Tòa Tổng Giám Mục Tahiti. Chiều hôm ấy, có hơn 5.000 người đến dự, vòm trời đầy sao làm tôi nhớ tới lời hứa của Chúa cho Abraham.
Sau rước lễ, tôi dâng một lời nguyện cho bệnh nhân. Tất cả đám dân ấy cầu nguyện bằng tiếng lạ. Thật là một thời khắc vô cùng sốt sắng và đầy niềm tin! Đang khi Thần Khí ca ngợi trong chúng tôi, những lời trí tri bắt đầu thành hình. Những thông điệp ấy loan báo dễ dàng nhờ sự cầu nguyện bằng tiếng lạ, vì tâm trí người cầu nguyện bằng tiếng lạ không phải bận rộn suy nghĩ xem phải nói gì, nên sẵn sàng đón nhận lời Chúa truyền ra. Trong số những lời trí tri ấy, có một lời làm tôi ngạc nhiên, vì nó thật đích xác. Tôi thông truyền ra đúng như nó diễn ra trong trí:
- ở đây có người dự Thánh Lễ đầu tiên. Người ấy đến từ rất xa. Bà đang đau cột xương sống, vào khoảng đốt thứ 4. Cơn bệnh này là do một quả dừa rơi trúng. Giờ phút này, một luồng khí nóng đang xâm chiếm lưng bà. Chúa đang chữa lành bạn đấy! Khỏi rồi, bạn sẽ làm chứng cho mọi người biết.
Hôm sau, chúng tôi lại có một Thánh Lễ như thế. Số người tham dự đã tăng thêm. Hôm ấy, chúng tôi đã sống một kinh nghiệm không bao giờ quên về quyền phép và lòng thương xót của Chúa. Trước khi kết thúc, chúng tôi xin những ai đã được chữa lành hôm qua lên làm chứng. Và chúng tôi đã được nghe những lời chứng thật tuyệt vời. Trong số đó, có chứng của một bà. Bà ấy nói:
- “Tôi theo đạo Tin Lành từ nhỏ. Chưa bao giờ tôi dự một Thánh Lễ Công giáo, cho đến ngày hôm qua… Vì tôi bịđau cột xương sống nặng, nên khi nghe biết Chúa đã chữa lành nhiều bệnh nhân trong Thánh Lễ hôm trước, tôi bịthuyết phục bởi lời của một bà bạn mà đến đây hôm qua, để xin Thiên Chúa chữa lành, dù tôi có phải trải qua một con đường dài mới đến đây được.
“Khi ông linh mục thông báo có người bịbệnh xương sống đang được chữa lành, tôi cảm thấy một luồng nhiệt rất mạnh nóng ran ở lưng tôi. Khi ông ấy nói thêm rằng đó là vào khoảng đốt thứ 4, tôi hiểu ngay đó là trường hợp của tôi. Nhưng điều làm tôi ngạc nhiên hết sức, đó là lúc ông nói rằng bệnh ấy phát sinh do một quả dừa rơi xuống.
“Quả thật, cách đây một năm rưỡi, lúc ấy, tôi bán nước dừa cho khách du lịch, tôi hái dừa bằng một cây sào, một trái dừa đã rơi trúng đốt xương sống thứ 4 của tôi. Lúc ấy, tôi đang có mang, bác sĩ khuyên tôi nên đợi sanh xong rồi sẽ mổ. Sau đó, ông lại bảo là không biết mổ thế nào, vì vôi đã hàn cứng các xương lại với nhau. Tôi rất đau, nhất là về đêm, ráng tìm một tư thế nào dễ chịu nhất trong giường để có thể ngủ được.
“Chiều qua, khi người tôi nóng ran và run rẩy, tôi đã khóc rất nhiều, tôi cảm thấy Chúa hiện diện mạnh mẽ trong tôi. Về nhà, tôi nhận thấy là tôi đã khỏi bệnh hoàn toàn. Bây giờ, tôi không còn một chút đau đớn nào ở cột sống, và tôi muốn tạ ơn Chúa cách công khai trước mặt mọi người.”
Cả tôi nữa, tôi cũng tạ ơn Chúa vì mọi chi tiết Ngài thông tri cho tôi đều đúng cả. Việc đó giúp tôi càng tin thêm lời trí tri, vốn là lời của Thần Khí đến với ta, và không phải như một cảm giác thể lý hay hiểu biết tâm lý, bởi vì các chi tiết đều quá chính xác, để không thể bảo đó là kết quả của tưởng tượng.
Trong trường hợp cụ thể này, tôi đã có thể dùng máy cát-xét để kiểm nghiệm lại lời chứng. Thâu băng thì thấy mọi chi tiết đều phù hợp với lời trí tri Chúa đã ban. Khi bà ấy làm chứng, mọi người đều ngợi khen Thiên Chúa, và lòng tin vào sự hiện diện cứ Chúa Yêsu Phục Sinh được tăng trưởng trong cộng đồng tín hữu.
Đó cũng là điều xảy ra với người phụ nữ Samari tại giếng Yacob, khi Đức Yêsu mặc khải cho chịta qua lời trí tri:
“Chịnói không có chồng là phải, vì chịđã có năm đời chồng, và người chịđang sống chung cũng không phải là chồng chị. Điều này quả chịnói thật!” (Yn 4,17-18).
Sau cuộc đàm thoại với Đức Yêsu, chịta bỏ vò nước đó, chạy vào thành mà nói với mọi người trong thành:
“Hãy đến mà xem có người đã nói được với tôi tất cả mọi sự tôi đã làm. Có phải Ngài là Đức Kitô chăng?” (Yn 4,29).
Như vậy, nhờ một lời trí tri mà cả dân thành Samari trở lại với Chúa. Cũng thế, nhờ đặc sủng của lời trí tri, cả cộng đồng đều được thêm sốt sắng, đức tin tăng trưởng và mọi người đều khen ngợi Chúa.
Một hôm, Đức Hồng Y Suenens bảo tôi viết một bài để giải thích làm sao lời trí tri đến với tâm trí ta. Tôi trả lời:
- Thưa Đức Hồng Y, con không làm sao giải thích được đặc sủng ấy. Việc ấy cũng khó như ngài bảo con viết một bài mô tả làm cách nào một sự chia trí đến với tâm trí mình vậy.
Mùa hè 1982, người ta xin tôi làm chương trình gồm 9 buổi phát hình về Canh Tân Đặc Sủng cho Đài CHOT ở Ottawa (Canada). Những chương trình dài nửa giờ ấy được ghi trên băng video-cassette, để sẽ được truyền đi vào cuối mùa thu. Trong một lời cầu nguyện cho bệnh nhân lần cuối cùng, tôi có vài lời trí tri loan báo việc Chúa đang chữa lành. Tôi nói như thế này:
- Ngay lúc này, có một người đang ở một mình trong bệnh viện. Anh ấy bịđau ở lưng, nhưng Chúa đang chữa anh khỏi. Anh cảm thấy một luồng khí nóng xâm chiếm lưng mình. Anh có thể đứng lên mà đi.
Khi về đến nhà, tôi mới nhớ là chương trình này không phát ngay lúc ấy, mà mấy tháng sau mới phát. Tôi đâm lúng túng và còn nghĩ:
- Có lẽ lúc này, chính người bệnh ấy cũng chưa vào nhà thương, thế mà tôi đã báo rằng anh khỏi bệnh nhân Danh Chúa.
Tôi cười thầm, vì thấy Thiên Chúa chúng ta thật hóm hỉnh.
Đến cuối tháng giêng, tôi nhận được một lá thư của ông B.G viết như sau:
“16 tháng giêng, 1983
“Vì mắc một cơn bệnh, tôi không thể tiếp tục làm việc: tôi có hai đốt xương sống trật khớp. Trịliệu và dưỡng sinh, tất cả đều không hiệu quả. Tháng 12 vừa rồi, tôi chịu một cuộc giải phẩu 4 tiếng, và nhờ đó cử động được chân phải. Chính ngày 9 tháng 12, ngày giải phẩu, đó là một thử thách ghê gớm cho tôi và gia đình tôi…
“Ngày 18 tháng 12, tôi nằm bệnh viện, cả tâm hồn lẫn thể xác đều kiệt quệ. Đức tin như đã chết trong tôi. Hồi 18 giờ 35 phút, tôi mở truyền hình, gặp lúc chương trình ‘Tình thương không biên giới’ sắp kết thúc, và chính lúc ấy cha nói:
- Một người, hiện đang ở một mình tại bệnh viện, đang đau lưng, và Chúa Yêsu đang bắt đầu chữa lành người ấy. Anh đang cảm nhận sự hiện diện cứ Chúa trong khắp cả con người anh. Sau này, anh sẽ làm chứng về sự lành bệnh này.
“Chương trình chấm đứt ở đây, còn tôi, mắt tràn lệ, tâm hồn cảm động sâu xa.
“Tôi tự nhủ: Làm sao Chúa Yêsu có thể kết hợp với trái tim đau thương, bịthất vọng ê chề và khép kín này? Nhưng chẳng phải Chúa đã hy sinh chịu chết cho những tâm hồn này sao?
“Hôm nay, một tháng sau sự việc ấy, tôi viết thư kể lại cho cha. Cuộc lành bệnh của tôi tiến triển rất tốt đẹp. Lần thứ nhất trong đời, tôi được nếm sự bình an của ơn tha thứ vô điều kiện.”
Cũng như ở Tahiti, mọi chi tiết của lời tiên tri đều xảy ra đúng. Chỉ có một chi tiết hơi khác, đó là Chúa đã thông báo cho tôi vào tháng 6, một việc chữa lành chỉ xảy ra vào ngày 18 tháng 12 sau đó; mà tôi thì ngay từ lúc ấy đã báo rằng “lúc này”.
Qua lời chứng ấy, tôi học được một điều quan trọng hơn nhiều: Chúa không hề bịhạn chế bởi thời gian… Ngài có thể ban một lời trí tri để báo trước một điều xảy ra sau. Khi nói: “Lúc này…”, Thiên Chúa không có đồng hồ, không có lịch. Ngài là Đấng-hiện-tại-vĩnh-hằng…
(*) Trong văn bản tiếng Pháp: “Cette expérience est semblable à celle de la lecture d’un message écrit sur des serviettes d’une boite de kleenex…”
Vì trò chơi này không có ở Việt Nam, chúng tôi tạm dịch như trên kia.
Blog Archive
Labels
- Archangles (4)
- Breviary (44)
- CHÚA GIÊSU ĐANG SỐNG (15)
- Dụ ngôn của Chúa (1)
- Film về Chúa (1)
- Hong An Thien Chua (13)
- Jesus Christ (9)
- linh hồn nơi luyện ngục (72)
- Lời chứng (42)
- Lyrics (1)
- Message (39)
- Mother of God (13)
- Nhà thờ (1)
- Niềm Tin Minh Hoạ (6)
- Phép lạ (21)
- Rosary (18)
- Saints (8)
- Songs (4)
- Thánh địa (1)
- The meaning (2)
- Tiên tri (1)
- Tiếng thì thầm (1)
- Truyện hay (8)