Pages

6/10/09

Nhớ Đến Tôi?

(Bài giảng NTM 2-8-2007 tại Carthage, MO Lễ cầu cho những người khắc tên trong Vườn Cầu Nguyện)

Nhật báo Bild tại thành phố Ham-burg nước Đức, trong số báo ra ngày 3 tháng 10 năm 1996, có đăng tin như sau: Anh Eduardo Sierra, 35 tuổi, người Công Giáo thuộc nước Tây Ban nha, nhân một chuyến du lịch sang nước Thụy Điển đã ghé thăm một nhà thờ bỏ trống thuộc thành phố Stock- holm. trong đó có đặt một chiếc hộp đựng xương của một người quá cố nào đó. Anh Eduaro Sierra quyết định cầu nguyện cho linh hồn người quá cố và viết tên cùng địa chỉ vào cuốn sổ đặt trước chiếc hộp với dòng chữ: "Ai cầu
nguyện cho người quá cố này xin ghi tên và địa chỉ vào cuốn sổ". Thế rồi sau đó hai tuần khi trở lại nước Tây ban Nha, anh Eduaro Sierra đã nhận được lá thư từ nước Thụy Điển báo rằng anh được hưởng trọn vẹn gia tài người đã chết là ông Jens Svenson, một nhà địa ốc 73 tuổi, không có một ai thân thích. Ông Jens Svenson đã ghi vào bản di chúc của mình rằng: "Bất cứ ai cầu nguyện cho linh hồn tôi thì sẽ được thừa kế tất cả gia tài của tôi". Số tiền anh được hưởng tương đương 2 triệu Mỹ kim.
Ông Jens Svenson cả một đời làm việc vất vả, dành dụm được một số tiền khá lớn, nhưng khi nằm xuống, ông chẳng mong ước gì hơn là có người nhớ đến và cầu nguyện cho ông .Thực ra đối với một người đã chết dù 2 triệu Mỹ kim cũng không ích lợi bằng
một Thánh Lễ hay một lời cầu nguyện bé nhỏ đơn sơ.Kính thưa quí cha, quí thày phó tế, Quí tu sĩ nam nữ và quí ông bà, anh chị em,Có một loài hoa tên là "Forget Me Not", người biết thưởng thức hoa thì gọi nó là "Lưu Ly Thảo", còn giới bình dân thì đặt tên cho nó là "Đừng Quên Tôi". Đừng Quên Tôi là 3 chữ tự nhiên được in sâu trong tâm trí con người. Ai trong chúng ta cũng ao ước người khác nhớ đến mình. Mẹ sửa soạn đi chợ thì đứa con nói: "Mẹ nhớ mua quà cho con nhé . " Anh kia mở một bữa nhậu, bạn bè đánh hơi được thì nói ngay: "ông nhớ gọi tôi đấy nhé ', Chồng đi làm xa thì vợ dặn dò: "Anh nhớ gọi về cho em nhé. " Vị linh mục sau khi thăm viếng bệnh nhân thì bệnh nhân thường nói: "Cha nhớ cầu nguyện cho con nhé". Chúa Giêsu là Thiên Chúa cũng không ngoại lệ. Trong phần Truyền Phép là phần quan trọng nhất của Thánh Lễ, chúng ta vẫn nghe câu: "Hãy làm việc này mà nhớ đến Ta". Hôm nay trong bài Phúc âm người trộm lành cũng bộc lộ tâm tình sâu kín nhất của anh ta với Chúa Giêsu: "Lạy Ngài khi nào vào Nước Ngài xin nhớ đến tôi ".

Cuộc sống hằng ngày của chúng ta có biết bao cực nhọc, biết bao trăn trở ưu phiền, thế nhưng khi có người gọi điện thoại đến hỏi thăm, hay chúng ta nhận được một lá thư, một món quà nào đó thì lòng chúng ta cũng nhẹ nhõm đi nhiều. Tại sao vậy? Thưa, bởi vì họ nhớ đến tôi nên mới gọi điện thoại cho tôi, họ nhớ đến tôi nên mới viết thư cho tôi, họ nhớ đến tôi nên mới gửi quà cho tôi. "Nhớ Đến Tôi" là 3 chữ chúng ta không muốn biến mất trong cuộc đời mình. Bởi vì nếu nó biến mất thì cuộc đời chúng ta sẽ rất bất hạnh.
Quí vị có biết thân nhân, ân nhân, bạn bè của quí vị đang nằm trong lòng đất cần điều gì nhất không? Tôi thiết tưởng họ cần đến lòng Thương Xót của Chúa. Đó là điều chắc chắn. Ngoài ra họ mong điều gì nhất không? Cũng chắc chắn là họ mong chúng ta Nhớ Đến Họ. Nhưng cái thiệt thòi nhất của họ là gì? Bị quên lãng. Thời gian thì đồng
loã với Quên Lãng. Dần dần người chết bị quên lãng. Bởi vì định luật của cuộc đời vẫn là: "Out of sight, out of mind." Việt Nam mình có câu rất sát nghĩa: "Xa mặt cách lòng". Đó là điều đau đớn nhất của người đã chết. Một em bé muốn ăn chỉ cần khóc, một người lớn muốn ăn thì lên tiếng nói. Còn người đã chết chẳng cần ăn, chẳng cần mặc. Họ chỉ cần chúng ta nhớ đến và cầu nguyện cho họ thì tội nghiệp họ không nói được , không khóc được, không làm dấu hiệu gì được. Đó mới là nỗi đau khổ vô cùng . Vì thế văn sĩ Pháp Jean Couteau nói một câu rất hay: "Đối với những người đã chết thì nấm mồ thực sự của họ không phái ớ trong nghĩa trang mà ớ trong con tim
quên lãng của người còn sống".
Một ngày nào đó tôi sẽ chết. Tôi muốn người ta đặt trên quan tài tôi không phải chục bó hồng, không phải 10 vòng hoa tươi mát, vì hoa đẹp mấy rồi cũng tàn. Nhưng tôi muốn người ta rải lên thi thể tôi những bông hoa tưởng nhớ, những nụ hoa cầu nguyện, những chùm hoa Xin Lễ, những bông hoa hy sinh. Hãy tặng tôi những bông hoa Forget Me Not. Hãy để hương hoa "Đừng Quên Tôi" còn phảng phất chung quanh tôi. Tôi cần thứ hoa đó hơn con thơ cần sữa mẹ, hơn thiếu nữ cần tình yêu, hơn khu vườn cần nắng ấm.
Hãy làm cho người khác điều mà con muốn người khác làm cho con. " Đó là lời vàng của Chúa Giêsu. Hãy tưởng nhớ đến những linh hồn thân nhân ân nhân, bạn bè, mồ côi, nếu chúng ta muốn sau này có nhiều người tưởng nhớ đến mình. Tình nghĩa thì quan trọng hơn bạc tiền. Đời sau thì giá trị hơn đời này. Những đồng tiền Xin Lễ, những đồng tiền khắc bảng cho thân nhân mà quí vị đã từng làm ở Công Trường này cho quí vị một cảm giác hạnh phúc và ý nghĩa bởi vì thân nhân của chúng ta đã và sẽ còn được
tưởng nhớ đến mãi.
"Nhớ Đến Tôi" đó là 3 chữ quan trọng không những cho người còn sống mà còn quan trọng hơn nữa cho những người đã ra đi trước chúng ta. Xin cám ơn quí cha và quí vị đã lắng nghe con nói. Con nói thay cho những người không còn tiếng nói.

Lm. Hữu Độ, CMC
(NS. TTĐM tháng 11,2007, tr 25)

TÔN KÍNH NGƯỜI QUÁ CỐ

Thánh nữ Gemma Galgani (1878-1903) chào đời và qua đời tại Borgo Nuovo thuộc Lucca (Bắc Ý). 25 năm ngắn ngủi tại thế đủ để thanh luyện cuộc đời thánh thiện của một trinh nữ.

Năm 1940 - gần 40 năm sau khi qua đời - Gemma Galgani được Đức Giáo Hoàng Pio XII (1939-1958) tôn phong hiển thánh. Cuộc đời thánh nữ là chuỗi dài hiện tượng siêu nhiên và ơn thánh khác thường. Những năm cuối cùng thánh nữ được hồng phúc sống cuộc khổ nạn của Đức Chúa GIÊSU KITÔ và được in Năm Dấu Thánh ngày 8-6-1899.

Để chuẩn bị thông phần cuộc khổ nạn với Đức Chúa GIÊSU, cuộc đời thơ ấu của Gemma Galgani sớm nếm mùi mồ côi tang tóc. Năm 1886 - Gemma lên 8 tuổi - thân mẫu đột ngột qua đời. 8 năm sau, đến phiên anh trai Gino từ trần, và năm 1897, thân phụ Enrico ra đi về thế giới bên kia. Thế là Gemma mồ côi cả Mẹ lẫn Cha và sống trong túng thiếu cùng khốn. Nhưng tất cả đau thương thử thách trở thành phương tiện thanh tẩy cuộc đời trinh nữ Gemma. Đặc biệt Gemma càng sống mối giây hiệp thông vô hình với người thân quá cố.

Vào những ngày lễ lớn, Gemma dẫn em gái Giulia đến nghĩa trang viếng mộ Song Thân và anh trai Gino. Hai chị em ở lại nghĩa trang lâu giờ cầu nguyện nơi mộ Cha Mẹ. Giây phút trải qua nơi nghĩa trang là giây phút nghỉ ngơi và an ủi đối với Gemma. Cô cảm thấy như nhận được vuốt ve trìu mến của Cha Mẹ. Đối lại, Gemma tha thiết khẩn cầu THIÊN CHÚA ban ơn an nghỉ ngàn đời cho Cha Mẹ.

Dưới bóng mát những cây trắc bá trồng trong nghĩa trang, Gemma cầu nguyện và suy tư về cái mỏng dòn chóng qua của cuộc sống con người. Chỉ trên Thiên Đàng con người mới sống trọn vẹn và lâu dài muôn đời muôn kiếp.

Khi chuyển đến sống với Dì ở cách xa Borgo Nuovo, Gemma không thể thường xuyên đến nghĩa trang viếng mộ Cha Mẹ. Thay vào đó, Gemma đến nhà thờ cầu nguyện cho Linh Hồn Cha Mẹ và người thân qua cố. Tâm tình quý mến yêu thương người quá cố là sức mạnh giúp Gemma thắng vượt mọi khó khăn trong cuộc đời và sẵn sàng dâng mình làm hy lễ cho THIÊN CHÚA.

... Nhân vật thứ hai có lòng sùng kính người quá cố là ông Giovanni Pascoli (1855-1912) thi sĩ nổi tiếng người Ý. Giovanni là con thứ tư trong gia đình có 10 người sống tại San Mauro, thuộc vùng Romagna (Bắc Ý).

Người đương thời âu yếm tặng ông danh hiệu ”thi sĩ của lòng nhân lành”. Ông không biểu lộ ra bên ngoài Đức Tin Công Giáo nhưng có tâm hồn tôn giáo sâu xa và luôn đề cao nền luân lý Kitô cũng như nhân đức trong sạch.

Tuổi thơ của Giovanni sớm nếm mùi cay đắng. Năm 1867 - Giovanni lên 12 tuổi - thân phụ bị giết chết. Một năm sau, thân mẫu lìa trần vì quá buồn sầu thương nhớ chồng. Chẳng bao lâu sau đó, hai anh của Giovanni cũng theo Cha Mẹ đi về thế giới bên kia. Trước đó không lâu, hai em gái cũng vĩnh biệt cõi trần khi tuổi còn thơ. Từ đó, nghĩa trang trở thành nơi chốn mà Giovanni thường một mình đến viếng mộ Cha Mẹ và anh chị em quá cố.

Những cái tang đau thương dồn dập ghi đậm nét sầu trong cuộc đời thanh xuân của Giovanni Pascoli. Chàng nhìn đời với đôi kính màu đen. Chàng nghi ngờ mọi người và không tin tưởng nơi THIÊN CHÚA. May mắn thay thời gian khủng hoảng không kéo dài lâu. Chàng sớm thức tỉnh và bắt đầu nhạy cảm trước tất cả những gì là Chân-Thiện-Mỹ. Chàng trở về với Đức Tin Công Giáo, đi tham dự Thánh Lễ thường xuyên và sốt sắng rước Mình Thánh Đức Chúa GIÊSU.

Thi sĩ Giovanni Pascoli từng sáng tác thánh thi ca tụng Đức Trinh Nữ Rất Thánh MARIA. Bài thơ trở thành nổi tiếng và hay nhất của thi sĩ.

Một ngày, Linh Mục Germano Tomassetti gửi tặng thi sĩ Pascoli bức ảnh Đức Chúa GIÊSU chịu đóng đanh trên Thánh Giá. Thi sĩ vui mừng tiếp nhận như món quà quý giá và viết cho Cha Tomassetti:

- Con đã nhận được tấm ảnh tuyệt đẹp Cha gửi cho con. Tấm ảnh Đức Chúa KITÔ biến hình. Nét dịu hiền của khuôn mặt chí thánh gợi lên cho con không biết bao nhiêu tâm tình tri ân, trìu mến và an ủi!

Điều đáng nói trong cuộc đời thi sĩ Giovanni Pascoli là lòng tôn kính người quá cố. Ông thường nhắc lại kỷ niệm êm ái thời thơ ấu. Mẹ dẫn bé Giovanni theo bà đến nhà thờ thánh Mauro để lần hạt Mân Côi cầu cho người qua đời. Sau này ông xây một nhà nguyện dâng kính Đức Mẹ MARIA và thường đến đó để cầu nguyện cho Cha Mẹ, anh chị em và người thân đã qua đời. Một bạn thân quả quyết thi sĩ Pascali dành thời giờ để đọc kinh cầu nguyện cho người quá cố. Ông cũng xin dâng Thánh Lễ cầu cho người qua đời. Ngoài ra, ông năng thăm viếng nghĩa trang thành phố và yêu thích chiêm ngắm những cây trắc bá trồng rải rác trong nghĩa trang.

Chắc chắn Linh Hồn người thân quá cố khẩn cầu trước tòa Chúa nên ông sống những ngày cuối đời trong an bình và ánh sáng của THIÊN CHÚA.

Vì có lòng đặc biệt tôn kính người qua cố, thi sĩ Giovanni Pascoli chuyển dịch bài thơ của thi sĩ Anh ”Chúng cháu 7 anh em”. Nguồn gốc bài thơ như sau.

Một bé gái 8 tuổi trên đường về nhà. Thi sĩ trông thấy cô bé liền gợi chuyện:

- Bé nói cho Bác biết bé có tất cả bao nhiêu anh chị em?

Cô bé trả lời:

- Chúng cháu 7 người. Hai anh đi biển. Hai anh làm việc ở tỉnh. Hai anh ở nghĩa trang.

Rồi cô bé nói tiếp:

- Trong căn nhà kia cháu sống với Mẹ và hai anh cháu ở gần đó.

Thi sĩ vặn lại:

- Như vậy đâu phải là 7 mà là 5, bởi vì 2 người kia đã chết!

Cô bé không chịu thua, nhất định cãi lại:

- Chúng cháu 7 người mà! Hai anh ở nghĩa trang chôn gần nhau và nghỉ yên trong cùng phần mộ.

Nói rồi, cô bé liến thoắng kể thêm rằng cô bé thường xuyên ra nghĩa trang thăm hai anh vì nghĩa trang ở gần nhà:

- Vào những buổi chiều êm ả, khi khí trời mát dịu, cháu mang thức ăn ra nghĩa trang, rồi cùng với hai anh, cháu dùng bữa chiều ở đó. Chúng cháu 7 anh em!

(Evaristo Cardarelli, ”Mese di Novembre”, Edizioni Cantagalli, Siena 1992, trang 41+59+31)

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

Cầu nguyện cho các linh hồn mồ côi trong Luyện ngục

Trong hồ sơ xin phong thánh cho Cha Domenico di Gesù Maria, qua đời năm 1630 tại Roma, có ghi lại câu chuyện sau đây.

Cha Domenico là đan sĩ dòng Kín Cát-Minh. Theo thói quen của dòng, các đan sĩ thường đặt trong phòng riêng một quan tài thật bằng gỗ. Chiếc quan tài giúp đan sĩ vừa suy niệm về sự chết vừa nhớ cầu nguyện cho những người đã qua đời.

Khi Cha Domenico đến sống tại một đan viện ở Roma, thì trong căn phòng dành cho ngài, đã có đặt một quan tài. Một đêm, Cha Domenico nghe rõ từ quan tài phát ra tiếng nói thật lớn gần như là tiếng thét:

- Không ai nhớ đến tôi!

Tiếng nói lập lại nhiều lần và vang ra xa nên tất cả dãy phòng cạnh Cha Domenico đều nghe rõ. Cha Domenico rất kinh hãi. Cha nghĩ đến hiện tượng ma quỷ quấy phá các đan sĩ. Cha liền quỳ xuống, tha thiết cầu xin THIÊN CHÚA soi sáng cho biết phải làm gì. Sau đó, Cha lấy Nước Thánh và rảy lên quan tài. Lần này, cũng cùng tiếng nói, khẩn khoản:

- Nước Thánh! Nước Thánh - Xin thương, xin thương xót!

Cha Dominico liền hỏi tiếng nói là ai và muốn gì? Người chết trả lời:

- Con là một người Đức, đến Roma hành hương các Nơi Thánh và qua đời tại đây. Xác con được chôn từ lâu năm tại nghĩa trang thành phố Roma. Trong khi Linh Hồn con còn bị giam cầm nơi Lửa Luyện Hình, chịu nhiều hình khổ đớn đau, để thanh tẩy các tội đã phạm. Nhưng con bị mọi người quên lãng. Không còn ai nhớ đến con để làm việc lành phúc đức và cầu nguyện cho con. Vậy xin Cha hãy động lòng thương xót, rảy Nước Thánh liên tục trên con, và nhất là xin Cha hãy khẩn cầu cùng THIÊN CHÚA Nhân Từ, xin Ngài sớm giải thoát con ra khỏi Chốn Luyện Hình.

Cha Dominico liền hứa sẽ đặc biệt cầu nguyện cho người quá cố mồ côi.

Cha ăn chay, hãm mình và cầu nguyện thật nhiều cho ông. Chỉ mấy ngày sau, người chết hiện ra trong phòng Cha Dominico, báo tin cho ngài biết ông được lên Thiên Đàng và hứa sẽ đền đáp ơn ngài cách bội hậu.

"Chúng con cậy vì Danh Chúa nhân từ cho các linh hồn mồ côi được lên chốn nghỉ ngơi, hằng xem thấy mặt Đức Chúa Trời sáng láng vui vẻ vô cùng Amen.

(”L'Aldilà .. Stupenda realtà”, Editrice Comunità, 1992, trang 38-39- Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt)