Pages

16/7/09

Bức ảnh thiêng liêng



Các Biến Cố Quan Trọng Liên Quan Đến Bức Ảnh Linh Thiêng Của Mẹ Guadalupe
Sau đây là những biến cố đặc biệt và quan trọng liên quan đến bức ảnh mầu nhiệm của Đức Mẹ Guadalupe:

* Năm 1531: Ngày 9 tháng 12: Đức Mẹ Guadalupe hiện ra lần thứ nhất và lần thứ hai vời thánh Juan Diego.
* Năm 1531: Ngày 10 tháng 12: Đức Mẹ Guadalupe hiện ra lần thứ ba với thánh Juan Diego tại đồi Tepeyac.
* Năm 1531: Ngày 12 tháng 12: Đức Mẹ Guadalupe hiện ra lần thứ tư tại đồi Tepeyac. Mẹ in hình ảnh lạ lùng của Mẹ vào chiếc áo Tilma của thánh Juan Diego. Đức Giám Mục Juan Zumarraga chứng kiến phép lạ hoa hồng và hình ảnh Đức Mẹ Guadalupe trên áo ấy. Đồng thời, vào cùng ngày này, Đức Mẹ Guadalupe còn hiện ra với người cậu của thánh Juan Diego là ông Juan Bernardino ở vùng Tolpetlac. Ông Bernardino đang hấp hối mà được Đức Mẹ Guadalupe chữa lành cho ông. Ông lành bịnh hoàn toàn.
* Năm 1531: Tháng 12: Hình ảnh của Đức Mẹ Guadalupe được đặt ở nhà nguyện riêng của Đức Giám Mục Zumarraga. Nơi đó có hàng ngàn người Aztecs đến kính viếng. Một đền thánh nhỏ được xây dựng tại đồi Tepeyac.
* Năm 1531: Cứu người chết sống lại. Ngày 26 tháng 12: Một cuộc rước kiệu hình ảnh Đức Mẹ Guadalupe được diễn hành từ thành phố Mexico City đến vùng đồi Tepeyac. Lúc ấy, có một người Mexico đã chết vì bị một mũi tên bắn vào người. Khi hình ảnh Mẹ đi ngang qua xác anh, anh ta được sống lại.
* Năm 1533: Một nhà nguyện lớn hơn được xây dựng ở đồi Tepeyac để tôn kính hình ảnh Đức Mẹ Guadalupe.
* Năm 1539: Một cuộc hoán cải lớn lao nhất đã xẩy ra: Tám triệu người Aztecs trở nên người Công Giáo, đó là do hiệu quả của hình ảnh Đức Mẹ Guadalupe.
* Năm 1544: Ngày 15 tháng 5: người cậu thánh Juan Diego có tên Juan Bernardino qua đời khi được 84 tuổi, tại vùng Tolpetlac.
* Năm 1544: Ở Tepeyac có một nạn dịch xẩy ra và giết chết 12 ngàn người tai thành phố Mexico City. Vì thế các trẻ em đi hành hương tới đồi Tepeyac ngay lập tức.
* Năm 1545: Ông Don Antonio Valeriano viết bài tường thuật về sự kiện Đức Mẹ Guadalupe hiện ra trên tờ báo Nican Mopohua.
* Năm 1548: Thánh Juan Diego qua đời, hưởng thọ 74 tuổi, tại Tepeyac.
* Năm 1556: Một nhà nguyện thứ ba được xây dựng ở Tepeyac, do Đức Cha Alonso de Montufar, vị Tổng Giám Mục thứ hai của Mexico.
* Năm 1557: Vị Tổng Giám Mục của Mexico chính thức công nhận sự thật về việc Đức Mẹ Guadalupe hiện ra.
* Năm 1570: Một bức họa về Đức Mẹ Guadalupe được gửi cho vua Phillip II của nước Tây Ban Nha. Bức ảnh này đã đóng vai trò quan trọng trong việc chiến thắng cuộc chiến tại Lepanto.
* Năm 1629: Một trận lụt khủng khiếp xẩy ra tại Mexico, làm cho 30 ngàn dân cư ở Mexico City bị chết đuối. Bức hình Đức Mẹ Guadalupe được rước đi bằng thuyền và sau đó hình ảnh Mẹ ở trong Vương Cung Thánh Đường cho đến khi nước lụt rút hết đi.
* Năm 1634: Ngày 14 tháng 5: Bức hình linh thiêng của Đức Mẹ Guadalupe được gửi về lại Tepeyac bằng một cuộc rước kiệu linh đình để tạ ơn Mẹ Maria vì trận lụt đã chấm dứt.
* Năm 1790: Tháng 4: Một Vương Cung Thánh Đường Đức Mẹ Guadalupe được cung hiến tại Tepeyac.
* Năm 1736: Nước Mexico bị nạn dịch chết 7 trăm ngàn người.
* Năm 1737: Ngày 27 tháng 4: Nạn dịch chấm dứt khi Đức Mẹ Guadalupe được tuyên xưng là Vị Thánh Bổn Mạng của nước Mexico. Ngày 12 tháng 12 hàng năm được tuyên bố là ngày lễ kính thiêng liêng và là ngày nghỉ làm việc.
* Năm 1754: Ở Roma, Thánh Bộ Nghi Lễ đã ra tuyên ngôn cho phép lập văn phòng và Thánh lễ tôn kính Đức Mẹ Guadalupe.
* Năm 1754: 24 tháng 5, Đức Giáo Hoàng Benedicto XIV ký một sắc lệnh chấp nhận Đức Mẹ Guadalupe là Thánh Quan Thầy của nước Mexico. Ngài còn trích dẫn Thánh Vịnh 147 như sau: “Ngài không làm việc giống như vậy ở mọi quốc gia.”
* Năm 1756: Mộc cuộc khảo sát kỹ lưỡng bức hình Đức Mẹ Guadalupe bởi họa sư nổi tiếng Miguel Cabrera và các họa sĩ khác. Mọi người đều kết luận rằng không ai có thể bắt chước để họa bức hình này một cách hoàn hảo như bức hình nguyên thủy.
* Năm 1777: Công trình xây dựng nhà nguyện có giếng nước ở đồi Tepeyac, nơi mà Đức Mẹ Guadalupe đã hiện ra với thánh Juan Diego. Nhà nguyện này ở phía đông của quảng trường.
* Năm 1791: Bức hình ảnh thánh thiêng này có phép lạ giữ gìn khỏi mọi sự hư hoại khi chất acid nitric, thường dùng để chùi rửa các khung ảnh bằng vàng hay bạc, rủi ro đổ trên bức hình này, nhưng rồi chỉ để lại một dấu nước mà thôi.
* Năm 1802: Một nhà nguyện được xây dựng ở vùng Cuauhtitlan, nơi sinh ra của thánh Juan Diego.
* Năm 1821: Vào lúc kết thúc cuộc chiến tranh dành độc lập của Mexico, hoàng đế Augustin de Iturbide đã tín thác quốc gia mới độc lập này trong sự che chở của Đức Mẹ Guadalupe.
* Năm 1890: Sửa chữa lại Vương Cung Thánh Đường Đức Mẹ Guadalupe.
* Năm 1894: Đức Giáo Hoàng Lêo XIII chấp nhận đặt văn phòng và dâng Thánh lễ mừng kính Đức Mẹ Guadalupe.
* Năm 1895: Ngày 12 tháng 10, Đức Giáo Hoàng Lêo cho phép đặt vương miện lên bức hình Đức Mẹ Guadalupe.
* Năm 1910: 24 tháng 8: Đức Mẹ Guadalupe được Đức Giáo Hoàng Piô X tôn vinh là Thánh Quan Thầy của Châu Mỹ La Tinh.
* Năm 1921: Ngày 14 tháng 11: Một phép lạ che chở cho bức hình khi lực lượng chống đối chính phủ phá hoại bằng cách cho nổ bom ngay dưới tấm hình Đức Mẹ Guadalupe nhưng không hề làm bể kiếng.
* Năm 1929: Ông Alfonso Marcue Gonzalez khám phá ra hình ảnh của một người đàn ông trong đôi mắt của bức hình Đức Mẹ Guadalupe. Sự khám phá của ông không được phổ biến ra cho đến năm 1960, sau khi được giáo quyền cho phép.
* Năm 1933: Ngày 12 tháng 12: Một Thánh lễ trang trọng được cử hành tại Đền Thánh Phêrô tại Roma, trước sự hiện diện của Đức Giáo Hoàng Piô XI. Ngài cũng lập lại lời tuyên xưng của Đức Giáo Hoàng Piô X là tôn kính Đức Mẹ Guadalupe là thánh Quan Thầy của Châu Mỹ La Tinh.
* Năm 1945: Ngày 12 tháng 10: Đức Giáo Hoàng Piô XII mừng kỷ niệm 50 năm ngày đội vương miện cho bức hình linh thiêng Đức Mẹ Guadalupe bằng buổi nói chuyện trên radio với nhân dân nước Mexico.
* Năm 1946: Các nhà điều tra chứng minh rằng bức hình ảnh của Đức Mẹ Guadalupe không phải là bức hình sơn dầu, không ai có thể tạo ra một bức hình như thế. (Tức là xác nhận rằng đây không phải do tay người làm ra.)
* Năm 1951: Ông Carlos Salinas khám nghiệm bức hình linh thiêng và nhận thấy một hình ảnh trong đôi mắt của Đức Mẹ Guadalupe.
* Năm 1955: Một thanh niên ở vùng Tolpetlac khám phá ra cây thánh giá bằng đá, nơi mà thánh Juan Diego đánh dấu chỗ tìm được người cậu đang hấp hối.
* Năm 1955: Ngày 11 tháng 12: Đài Radio tuyên bố xác nhận rằng hình ảnh một người đàn ông được nhìn thấy trong đôi mắt ảnh Mẹ chính là thánh Juan Diego.
* Năm 1962: Bác Sĩ và bà Charles J. Wahlig, vốn là bác sĩ Nhãn Khoa ở tiểu bang New York, Hoa Kỳ khám phá thêm 2 hình ảnh khác trong đôi mắt của Đức Mẹ Guadalupe, sau khi họ đã phóng đại khuôn mặt Đức Mẹ Guadalupe trong bức hình lớn lên 25 lần. Bằng phương pháp khoa học, bác sĩ Wahlig chứng minh rằng có những hình ảnh được nhìn thấy trong mắt Mẹ. Và mắt Mẹ là đôi mắt của một con người.
* Năm 1966: Ngày 31 tháng 5: Đức Giáo Hoàng Phaolô VI gửi một đóa hoa hồng bằng vàng đến Đền Thánh Đức Mẹ Guadalupe.
* Năm 1975: Di chuyển bức hình linh thiêng từ Vương Cung Thánh Đường cũ sang Vương Cung Thánh Đường mới ở bên cạnh để tránh sự hư hoại.
* Năm 1979: Tháng 1: Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolo II viếng thăm Vương Cung Thánh Đường Đức Mẹ Guadalupe. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử mà có một vị Giáo Hoàng đến viếng thăm Đức Mẹ Guadalupe.
* Năm 1979: Hai nhà khoa học gia Hoa Kỳ khám nghiệm bức hình linh thiêng bằng tia sáng quang tuyến. Báo cáo của họ xác nhận tính cách siêu nhiên của bức hình.
* Năm 1981: Kỷ niệm 450 năm ngày Đức Mẹ Guadalupe hiện ra: người ta vui mừng liên hoan khắp nơi trong nước Mexico.

Một Giấc Mơ

Thiết nghĩ rằng, ai trong chúng ta không nhiều thì ít, cũng có một giấc mơ. Có những giấc mơ có thể đổi đời, làm cho người ta từ một con người tội lỗi trở thành tốt hơn. Và cũng có những giấc mơ chỉ mãi là giấc mơ nếu nó không được hiện thực trong cuộc sống. Giấc mơ có thể thành sự thật hoặc chỉ mơ màng thoáng qua. Cách đây mấy năm, khi còn là một cậu tập sinh, tôi thường hay nằm mơ. Một giấc mơ thật kỳ diệu thay. Giấc mơ xảy ra như thế này. "Vào một ngày nọ, tôi đang đi trên một con đường dài thăm thẳm. Tâm hồn vui sướng tự do tự tại, muốn bay thì bay, muốn nhảy thì nhảy. Bay ngang qua những hàng cây thật cao vút. Tôi cứ tiếp tục đi mãi và đi mãi như một hành trình rất dài không chỗ nghỉ chân. Tiếp đến có những khúc đường đầy hoa lá thật đẹp, gió thổi mát rượi cây lá vui đùa. Nhưng cũng có những hố xâu đen tối mù mịt không đáy. Đến những hố sâu này, thì tôi không thể tự mình bay qua được, vì khoảng cách từ bờ bên này qua bên kia rất là xa. Lạ lùng thay, ngay lúc đó, có hai thiên thần đến nâng hai cánh tay tôi, và bay qua hố sâu ấy. Cứ xảy ra như vậy khi tôi đến những hố sâu đen tối."

Giấc mơ này được lập đi lập lại hai ba lần. Đặc biệt những khi tôi gặp những khó khăn và tâm hồn xao xuyến với ơn kêu gọi. Khi được tĩnh giấc tôi suy nghĩ rất nhiều về hiện tượng này. Có phải hai thiên thần đây chính là cánh tay của Chúa đã đến đỡ nâng tôi trong cảnh khốn khó chăng? Hay đây chỉ là một giấc mơ diễn lại sự mong ước cầu khấn của tôi hằng ngày. Vì theo các nhà tâm lý học, thì ban ngày mình nghĩ gì thì ban đêm mơ về sự ấy. Dù thật hay hư, thì giấc mơ này đã thật sự ấn nghiệm trong cuộc sống của tôi. Tôi cũng dựa vào đó để lấy sự phấn khởi cho mình trong những khi gặp nỗi éo le.

Mỗi khi gặp những khốn khó âu lo, tôi thường hay âm thầm đến quì dưới chân Mẹ Maria. Người Mẹ mà tôi đã một lần dâng hiến cuộc sống từ khi tôi bỏ lại gia đình và người Mẹ thể xác ở chốn quê nhà. Tôi thích chuyện trò với Mẹ Maria trong những giây phút lặng yên vắng người. Khuất bóng những người chung quanh, chỉ còn lại Mẹ và con. Những nỗi lo âu cho tương lai, những khúc mắc khó khăn của hiện tại, những chán chường thất vọng, và những nối tiếc thời gian quá khứ tự nhiên trào ra từ trong lòng, như chưa từng được một lần nói với ai. Không ai yêu Mẹ bằng con cũng không ai yêu con bằng Mẹ. Mẹ chính là quê hương, là nguồn suối mát dịu tắm gội các con trong biển ái tình. Có những lúc một mình trong đêm vắng, ở chổ làm việc, khi không ai để ý, tôi cũng thường cất lên những bài hát về Mẹ. Những bài hát này gợi lại tình Mẹ thương tôi và đang ấp ủ bao bọc tôi hằng ngày.

Cách đây 8 năm về trước, khi cậu tôi gọi điện thoại báo tin Má tôi đang lâm bệnh ung thư gan nặng, khó qua khỏi cơn mê này. Có thể nói là cữu tử nhất sinh. Những tin giật gân này làm tôi điên đảo muốn khóc. Lúc đó tôi mới nhập dòng được 5 tháng, và đang trong thời gian chuẩn bị tận hiến cho Mẹ Maria qua nghi thức trao áo dòng. Còn khoảng 3 tuần nữa là tôi sẽ được chính thức mang bộ áo dòng đen dài từ cổ xuống chân, trở thành người con tận hiến cho Thiên Chúa qua Mẹ Maria. Đây cũng là ước vọng của tôi, là lý do thúc đẩy tôi gia nhập cộng đoàn tận hiến cho Thiên Chúa. Khi được nghe tin Má bị bệnh nặng, tôi chơi vơi như những chiếc thuyền chưa cặp bến. Má tôi muốn gặp hai anh em tôi lần cuối, và bất luận như thế nào hai anh em tôi từ Mỹ cố gắng thu xếp mọi công việc để trở về nhìn mặt Má, trước khi Má ra đi an nghĩ cõi thiên thu. Sao mà tội nghiệp qúa Má ơi. Lúc đó vào năm 1994, phương tiện về Việt Nam cũng chưa được khả quan như bây giờ. Tôi đang bối rối không biết phải làm cách nào. Phần thì báo tin trễ qúa, và chỉ còn khoảng 3 tuần nữa là tôi được gia nhập Tập Viện. Tôi băn khoăn lo lắng, rồi đi trình bày với Cha Giám Tập. Biết rõ sự tình, Ngài đã quyết định cho tôi về thăm Má lần cuối. Tôi bắt đầu đi làm thủ tục giấy tờ. Nào là đi chụp hình để làm passport, nào là điền đơn xin xuất ngoại, v.v. và gửi ngay cho Anh tôi ở Florida, để anh tôi kịp thời gian mua vé máy bay. Nhưng lạ lùng thay, qua bao ngày lo lắng, không hiểu anh tôi làm giấy tờ thế nào mà tôi lại bị trục trặc và không đi được. Đúng là ý Chúa nhiệm mầu. Có lẽ Chúa và Mẹ Maria thầm nói với tôi, "Ai đã ra tay mà còn cầm cày quay lại thì không xứng đáng làm môn đệ của ta." Thế là tôi bị kẹt lại và anh tôi đi một mình. Tuy không thấy được mặt tôi, nhưng có anh tôi chắc Má cũng an lòng. Tôi cũng nghĩ là Má tôi không bao giờ trách tôi về chuyện ấy, vì Má tôi rất mong muốn tôi được dâng hiến cho Thiên Chúa. Nhờ đó mà gia đình được chúc phúc. Tuy không đi được, nhưng lòng tôi luôn hướng về Má, và ngày đêm đọc kinh cầu nguyện cho Má. Mong sao nếu đẹp ý Chúa thì Má thoát khỏi cơn bệnh hiểm nghèo.

Ngày tháng mong mỏi sự may lành trôi qua. Tôi đã vào nhà tập, được mặc áo dòng. Còn được tin bệnh tình của Má tôi đang thuyên giảm từ từ. Thế là tôi được cả chì lẫn chài. Được nhận áo dòng là dấu chỉ tận hiến cho Mẹ Maria và được Mẹ Lavang đã cứu thoát Má tôi.

Sau chuyến về thăm quê hương tôi mới nghe Má tôi kể lại như sau, "Má bị bệnh ung thư gan, đến thời gian cuối cùng. Chạy chữa từ Huế rồi vô Hà Nội, nhưng bệnh tình không thuyên giảm mà còn ra tệ hơn nữa. Tiền bạc đã hết, bác sĩ lại bó tay. Chỉ còn nằm chờ chết. Không biết phải tính cách nào. Nhưng Má tôi vẫn không cam lòng với số mạng ngắn ngủi đó, lúc đó Má tôi khoảng chừng hơn bốn mươi tuổi. Má tôi thương cho đoàn con thơ dại mới lớn. Người con út chỉ có mới chừng hai tuổi. Nếu mất Mẹ thì đoàn con biết trông nhờ vào ai. Chúng tôi sẽ bơ vơ giữa dòng đời thiếu vắng tình Mẹ chở che dìu dắt. Tiền mất tật mang. Uống thuốc bao nhiêu cũng không bớt, sự đau đớn vẫn còn đó. Khốn khổ thay những người đã từng cho Má tôi vay tiền để chữa bệnh cũng đến xếp hàng đòi trả nợ. Họ nghĩ rằng trước sau Má tôi cũng qua đời, nên tranh thủ đến đòi nợ thì hơn. May đâu còn trả lại được chút tiền. Cả những người lúc trước được xem là thân thiện nhất cũng không trừ. Đau đớn vì cơn bệnh đã đành lại còn phải chịu cảnh nợ nầng chồng chất dèm pha. Làm sao bây giờ, tiền thì không có, bệnh lại mỗi ngày mỗi trầm trọng hơn." Biết được tình trạng như vậy, anh tôi trở lại Mỹ, liền đi vay một số tiền ở bà con láng giềng rồi gửi về trang trải số nợ. Khi nghe lại những người đến đòi nợ, tôi cảm thấy ứa cả họng. Đúng là có phước cùng hưởng, có họa thì đành mang một mình."

Kể như việc đòi nợ đã tạm xong. Nhưng bệnh tình Má tôi đã đến giờ phút cuối cùng, nhìn lại cảnh đòi nợ, Má tôi không còn sức lực để đi mượn tiền chữa bệnh nữa. Kể như các bác sĩ phàm trần cũng chịu thua. Thân xác Má tôi càng ngày càng hao mòn gầy còm, chỉ còn lại da bọc xương, hai mắt hõm sâu vào, cộng với nước da xanh xao trông thật khó coi.

Ở hiền gặp lành. Chúa nhân lành có mắt, Mẹ Maria từ bi dủ lòng thương. Vào một ngày nọ, trong khi cơn tuyệt vọng chồng chất, Má tôi đột nhiên xin Ba tôi chở đi cầu cứu với Mẹ Lavang. "Bây giờ chỉ còn có Mẹ lavang mới là hy vọng độc nhất", Má tôi nói với Ba tôi như vậy. Sau cuộc du hành đi Lavang về, tối lại mọi người trong nhà lăn ra ngủ say, riêng Má tôi thì cứ thao thức không thể nào ngủ được. Cứ trằn trọc suốt đêm như có một điềm lạ gì đó sắp sửa xảy ra. Thật vậy, người ta thường nói, "Đêm dài thì lắm mộng." Nghe Má tôi kể lại, "trong cơn đau đớn ngủ không được, thì chợt có một Bà rất đẹp hiện ra với Má tôi. Má kể lể cho Bà đẹp mọi đau đớn và lo lắng của gia đình." Bà đẹp nói, "Con cứ yên tâm, Ta sẽ đến chữa con. Rồi Bà đẹp cười và biến mất". Sau những ngày kế tiếp, Má tôi thật vui vẻ như một người bình thường không hề chịu bệnh bao giờ. Má tôi đột nhiên đòi ăn, và ăn rất nhiều nữa. Khi bị ung thư gan thì thân xác héo mòn từ từ vì thiếu dinh dưỡng, ăn không được ngủ không yên. ăn vô thì cứ bị nôn ra. Sau đó Má tôi đi bác sĩ để họ khám lại thử xem có chuyện gì thay đổi. Các bác sĩ đều cho đây là một phép lạ hiếm có. Vì từ xưa nay, những người bị bệnh ung thư như Má tôi đều đã từ trần. Lúc Má tôi nằm trong bệnh viện, cũng có những người cùng chung một số phận như Má tôi. Nhưng sau ít tháng họ đã từ giã gia đình để về với Chúa.

Thời gian trôi qua thì Má tôi được bình phục, không cần đến bác sĩ gì cả. Thế là má tôi đã hết bệnh. Câu chuyện này đã được kể lại lúc tôi về thăm gia đình lần đầu tiên vào năm 2000, nghĩa là sau 12 năm xa cách Việt Nam và sau 6 năm khi Má tôi lành bệnh. Tôi thử hỏi, có thật là phép lạ hay không? Má tôi cứ nói, "Hãy hỏi Ba con thì hay, vì trong lúc được Mẹ hiện ra trò chuyện với Má, thì Ba con cũng nằm bên cạnh để coi chừng Má khi bị bệnh giầy vò." Tôi quay sang hỏi Ba tôi, thì Ba tôi chỉ mỉm cười và nói, "Mẹ hiện ra với ai thì người đó tin." Tuy Ba không hề nói gì thêm nhưng tôi hiểu được Ba tôi rất tin đó là một phép lạ mà Mẹ Lavang đã thương đến gia đình tôi. Tuy rằng không được tận mắt thấy, chính tai nghe lời Mẹ Maria, nhưng một phần nào đó, tôi cũng tin Mẹ đã dủ lòng thương đến Má tôi. Trong khi bác sĩ bó tay, thuốc men vô hiệu nghiệm, thì làm sao bệnh Má tôi từ thập tử nhất sinh mà được bình phục một cách dể dàng nhanh chóng như vậy.

Thật là hồng ân bao la của Thiên Chúa và Mẹ Lavang tuôn đổ xuống trên gia đình tôi. Tôi luôn thầm cảm tạ ơn Chúa mỗi ngày. Không những chỉ có ơn lành bệnh của Má tôi, mà còn bao nhiêu những ơn phi thường khác nữa mà tôi không thể kể lại ở đây. Tôi kể lại những giấc mơ đã thành sự thật trên đây để nhắc nhở bạn và tôi một điều. Cho dù đời chúng ta có gặp bao nhiêu sóng gió ba đào giữa hố sâu nước độc của thế gian, Chúa luôn luôn ở cùng ta để nâng đỡ, bổ sức, và gìn giữ ta khỏi nhiễm lây bụi trần quỉ dữ. Có nhiều lúc chúng ta cảm thấy vô vọng chán ngán với cuộc sống là bởi vì chúng ta không mở cửa tâm hồn ra để Chúa đổ đầy ơn lành của Ngài. Thử hỏi, khi tâm hồn đã chứa đầy những lo toan của cuộc sống, thì còn chổ đâu để Chúa đổ thêm vào.

Đức Mẹ Maria linh thiêng

Đức Mẹ Maria linh thiêng và lá thư huyền ảo
Ngày xưa, đã có một thời gian bức hình Đức Mẹ Maria và bức thư huyền bí không ai lý giải đã được truyền từ nước này sang nước khác... Thời đại công nghệ số, bức thư dần được chuyển thành email và đã được một số người Việt Nam nhận được đồng thời dịch ra tiếng Việt để truyền nhau... Bẵng đi một thời gian, từ đầu năm 2009 và đặc biệt là dịp Tết Kỷ Sửu đến nay, bức thư huyền ảo năm xưa lại xuất hiện nhưng dưới dạng gọn hơn là link ảnh chụp cả nội dung bức thư và bức hình Đức Mẹ Maria... Tính trung bình, từ Tết đến nay, OnlyU nhận được khoảng 30 messages/emails... các loại liên quan đến nội dung này.


Một trong những tấm ảnh được truyền tay nhau giai đoạn vừa qua

Nhân loại lại bước vào một năm mới. Trái đất, thời tiết bốn mùa cứ như xoay chuyển vần xoay, cứ như thay đổi không ngừng. Năm 2008, Năm Mậu Tý đã qua đi và được đánh dấu bằng việc khủng hoàng kinh tế toàn cầu trên diện rộng. Phải chăng do khó khăn đó mà lòng tin của con người đang cần được củng cố vun đắp, nuôi dưỡng và phát triển qua bức hình và bức ảnh năm xưa hay đơn giản chỉ là một "liều thuốc tinh thần"?

Lá thư gốc bằng tiếng Anh:

The President of Argentina received this picture and called it "junk mail", 8 days later his son died. A man received this picture and immediately sent out copies...his surprise was winning the lottery.

Alberto Martinez received this picture, gave it to his secretary to make copies but they forgot to distribute: she lost her job and he lost his family.

This picture is miraculous and sacred, don't forget to forward this within 13 days to at least 20 people. Do Not Forget to forward and you will receive a huge surprise!!!

Lá thư dịch sang tiếng Việt:

Tổng thống Argentina nhận được bức hình này và xem nó như là thư rác, 8 ngày sau đó, con trai của ông ta chết. Một người đàn ông khác cũng nhận được bức hình này và ngay lập tức gửi bản sao đến cho nhiều người... Thật là ngạc nhiên, anh ta đã trúng số độc đắc.

Alberto Martinez nhận được bức hình này, đưa cho cô thư ký của mình để copy, nhưng quên phân phát cho mọi người; cô ấy mất việc còn gia đình anh ta không còn nữa.

Bức hình này ẩn chứa sự huyền diệu và linh thiêng. Đừng quên phân phát bản sao của bức hình này đến ít nhất 20 người trong vòng 13 ngày, các bạn sẽ nhận được một sự ngạc nhiên đáng kinh ngạc!!!