Pages

13/8/09

Đức Mẹ Fatima




Đức Mẹ Fatima là một trong số nhiều tước hiệu mà người Công giáo dành cho Đức Trinh nữ Maria. Tước hiệu này phát xuất từ việc Đức Mẹ hiện ra 6 lần với 3 em bé chăn cừu làng Fatima (Bồ Đào Nha) là Lúcia dos Santos, Francisco Marto và Jacinta Marto từ ngày 13.5 tới ngày 13.10.1917.

Tước hiệu Đức Bà Mân Côi cũng được dùng để ám chỉ người phụ nữ đã hiện ra này. Các trẻ kể rằng người phụ nữ này đã đích thân xưng mình là "Đức Mẹ Mân Côi". Ngoài ra cũng thường thấy một tước hiệu gọp lại từ hai tước hiệu trên: "Đức Mẹ Mân Côi Fatima" (tiếng Bồ Đào Nha: Nossa Senhora do Rosário de Fátima).
Bối cảnh lịch sử
Từ tháng 8 năm 1914, châu Âu xẩy ra trận thế chiến thứ nhất, giết chết khoảng 6 triệu binh sĩ. Bồ Đào Nha theo phe đồng minh tham gia trận chiến từ tháng 5/1916. Bồ Đào Nha có khoảng 50.000 binh sĩ đồn trú ở Pháp[1].
Vị trí thành phố Fatima trên bản đồ Bồ Đào Nha
Lúcia dos Santos (ở giữa) với Jacinta và Francisco Marto, 1917.

Năm 1917, Fatima là 1 giáo xứ nông thôn gồm khoảng 2.500 người cư ngụ rải rác trong khoảng 40 thôn xóm. Mọi người đều lao động trên các đồng ruộng. Các trẻ em cũng phải giúp đỡ cha mẹ những việc nhẹ như chăn dắt bò, dê, cừu vv...Phần lớn dân cư đều mù chữ, chỉ có khoảng 10% phụ nữ biết đọc, biết viết[2].

Các gia đình Dos Santos và Marto cư ngụ trong thôn Aljustrel. Gia đình Dos Santos có 1 bé gái, sinh ngày 22.3.1907. Gia đình người em họ Marto có 1 con trai là Francisco Marto, sinh ngày 11.6.1908 và 1 con gái là Jacinta Marto, sinh 11.3.1910. Ba em bé này thường chăn dắt đàn cừu tại bãi gọi là «Cova de iria», cách thôn chừng 2 km.

Trong năm 1915, Lúcia, Francisco và Jacinta đã gặp thiên thần hiện ra với chúng ở bãi này. Khi về nhà thuật lại với cha mẹ, chúng bị cha mẹ mắng, cho là đặt chuyện nói láo. Mùa xuân và mùa hè năm 1916, thiên thần lại hiện ra với chúng và dạy chúng cầu nguyện như sau :

« Lạy Chúa !
Con tin, con thờ lạy
Con trông cậy và con yêu mến Chúa.
Con xin Chúa tha thứ
cho những ai không tin,
không thờ lạy,
không trông cậy,
và không yêu mến Chúa. »

Đức Mẹ hiện ra lần đầu

Ngày 13.5.1917, vào lúc trưa, 1 bà mặc áo trắng toát hiện ra với 3 em bé chăn cừu, nói với các em là hãy lần chuỗi đọc kinh Mân Côi hàng ngày để cầu nguyện cho thế giói chấm dứt chiến tranh, được hòa bình. Trước khi biến đi, Bà bảo 3 em hãy trở lại nơi đây đúng giờ trưa ngày 13 tháng sau.

Jacinta - quên giữ kín - về nhà thuật lại sự việc cho cha mẹ nghe. Tin này loan truyền nhanh khắp làng. Mọi người tỏ ra không tin. Vị linh mục chính xứ hỏi Lúcia, nhưng cũng không tin. Trong báo cáo gửi lên giám mục cai quản giáo phận Leiria, vị linh mục viết : «cần phải xa lánh chuyện này».

Đức Mẹ hiện ra lần thứ hai

Ngày 13 tháng 6, đúng giờ trưa, 3 em lại tới nơi hẹn, theo sau có khoảng vài chục người tò mò đến xem sự thể ra sao. Mọi người lần chuỗi đọc kinh. Đức Mẹ lại hiện ra với 3 em, nhắc Lúcia về tầm quan trọng của việc đọc kinh Mân Côi câu nguyện dân kính «trái tim vô nhiễm Maria», đồng thời báo trước cái chết của 2 anh em Francisco và Jacinta Marto : «Ta sẽ sớm đưa Francisco và Jacinta về trời, còn con, con sẽ ở lại thế gian một thời gian. Chúa Giêsu muốn dùng con để loan truyền cho mọi người biết ta và yêu mến ta». Đức Mẹ cũng yêu cầu Lúcia học chữ để dễ loan báo lời Đức Mẹ cho các người khác.

Các người đi theo không nhìn và nghe thấy gì. Họ chỉ nhìn thấy cành cây nhỏ (mà Đức Mẹ đứng) trĩu xuống dưới 1 sức nặng, rồi đột nhiên bật lên (khi Đức Mẹ biến đi)

Đức Mẹ hiện ra lần thứ ba
Tượng Đúc Mẹ Fatima

Ngày thứ Sáu 13.7.1917, «bà mặc áo trắng» lại hiện ra với 3 em - có khoảng 4.000 người theo sau. Đức Mẹ vẫn nhắc Lúcia việc đọc kinh Mân Côi mọi ngày, để chiến tranh chóng chấm dứt. Lần này Đức Mẹ tiết lộ cho 3 em "bí mật" gọi là "bí mật Fatima". (Năm 1942, 2 bí mật đầu đã được công bố, còn bí mật thứ 3 thì mãi tới năm 2000, Giáo hội Công giáo Rôma mới công bố).

Đức Mẹ hiện ra lần thứ tư

Ngày 10.8.1917, viên chánh tổng - 1 người chống đối hàng giáo sĩ - đòi 3 em Lúcia, Francisco và Jacinta tới để tra hỏi, nhưng không có kết quả. Ngày 13.8, ông ta nhốt 3 em vì làm rối loạn trật tự công cộng và tiếp tục tra hỏi, nhưng hoài công. Rốt cuộc, ngày 15.8, ông ta phải thả 3 em ra.

Tuy nhiên, ngày 13.8, có khoảng 18.000 người tới bãi chờ xem sự lạ, nhưng 3 em vắng mặt vì còn bị nhốt. Chúa nhật 19.8, khi 3 em dẫn đàn cừu tới thả ở bãi Cova de iria, Đức Mẹ lại hiện ra với 3 em, yêu cầu các em nói với mọi người cầu nguyện cho các người tội lỗi mau thống hối và hứa sẽ làm 1 phép lạ cho mọi người tin.

Đức Mẹ hiện ra lần thứ năm

Ngày 13.9, có khoảng 30.000 tụ họp tại bãi Cova de iria, cầu nguyện cùng với 3 em. Đức Mẹ lại hiện ra với 3 em và cho biết tháng sau, sẽ có Chúa, Đức Mẹ núi Carmêlô, thánh Giuse và Chúa Hài đồng Giêsu sẽ cùng tới.

Đức Mẹ hiện ra lần thứ sáu
Bản sao chụp 1 trang của báo Ilustração Portugueza ngày 29.10.1917 cho thấy đám đông dân chúng đang ngẩng nhìn Phép lạ Mặt trời, khi Đức Mẹ hiện ra ở Fatima

Ngày 13.10.1917, mưa như trút nước trên bãi Cova da Iria. Một đám đông khoảng 70.000[3] người - kể cả nhiều phóng viên chụp hình và các ký giả - tụ tập tại đây lần chuỗi, đọc kinh cầu nguyện. Lúc giữa trưa, Đức Mẹ hiện ra với 3 em và yêu cầu cho xây 1 nguyện đường tại đây để vinh danh Đức Mẹ. Đức Mẹ cũng loan báo thế chiến thứ nhất sẽ sớm chấm dứt và yêu cầu những kẻ có tội hãy mau sám hối.

Khi Đức Mẹ biến về trời thì mưa ngưng rơi, mặt trời xuất hiện trên bầu trời xanh biếc. Đám đông đã có thể nhìn thẳng vào mặt trời và thấy mặt trời nhảy múa, tung ra các chùm tia sáng nhiều màu. Mặt trời dường như xuống thấp gần trái đất, khiến đám đông sợ hãi. Việc lạ xẩy ra trong 10 phút, sau đó mọi sự trở lại bình thường. Hiện tượng này được hầu hết đám đông chứng kiến, và một số người ở cách đó mấy dặm cũng nhìn thấy.[4]

Trong thời gian này, các nhà khoa học trên thế giới không hề ghi nhận 1 hiện tượng khác thường nào của mặt trời.

Trong khi đó, riêng 3 em nhìn thấy Thánh Gia, rồi Đức Mẹ Sầu Bi, Chúa Hài Đồng Giêsu và sau chót là Đức Mẹ núi Carmêlô lần lượt xuất hiện như đã hứa trước với 3 em.

Số phận 3 em chăn cừu

Francisco và Jacinta Marto bị chết sớm trong đợt dịch cúm Tây ban nha, Francisco chết năm 1919, Jacinta chết năm 1920. Cả 2 em đã được giáo hoàng Gioan Phaolô II nâng lên hàng đáng tôn kính (venerable) ngày 13.5.1989 và được phong chân phước ngày 13.5.2000. Mộ của 2 em hiện nằm trong lòng Vương cung thánh đường Fatima.

Còn Lúcia Dos Santos vào tu viện dòng Dorothea ở Pontevedra (Galicia, Tây ban nha) ngày 24.10.1925, sau đó khấn lần đầu ở Tuy (Tây ban nha) năm 1928. Năm 1925 và 1929, Lúcia lại được Đức Mẹ hiện ra với mình. Tháng 10/1934, Lúcia khấn vĩnh viễn và lấy tu danh là nữ tu Đức Mẹ Maria Sầu Bi.

Sau nhiều năm điều tra, giám mục da Silva, cai quản giáo phận Leiria, trong thư mục vụ ngày 13.10.1930 đã công nhận sự kiện Đức Mẹ hiện ra với 3 em nói trên ở Fatima và chính thức cho phép việc tôn sùng Đức Mẹ Fatima. Theo lệnh hàng giáo phẩm, Lúcia đã viết các hồi ký về sự kiện trên gồm 4 bản (versions) : 1 bản năm 1935, 1 năm 1937, 1 năm 1941 và 1 đầu năm 1942.

Năm 1946, nhân kỷ niệm 300 năm ngày dâng nước Bồ Đào Nha cho Đức Trinh Nữ Maria, vị sứ thần tòa thánh Vatican là hồng y Masella đã đội (vương miện) triều thiên lên tượng Đức Mẹ Fatima, với sự tham gia chứng kiến của khoảng 600.000 tín hữu hành hương. Vương miện này do các phụ nữ Bồ Đào Nha cung hiến để cảm tạ Đức Mẹ đã gìn giữ Bồ Đào Nha trong cuộc thế chiến thứ nhất.

Từ năm 1948, Lúcia vào tu trong đan viện dòng kín Carmêlô ở Coimbra (Bồ Đào Nha), dưới tên nữ tu Lúcia Trái Tim Vô nhiễm nguyên tội.

Lúcia từ trần ngày 14.2.2005 ở tuổi 97.

10/8/09

SỐNG SỨ ÐIỆP FATIMA

Năm 1917, Ðức Mẹ hiện ra tại Fatima , Bồ Ðào Nha ban cho nhân loại 3 mệnh lệnh:

- Cải thiện đời sống

- Lần hạt Mân Côi

- Tôn sùng Trái Tim Mẹ



Ba mệnh lệnh trên chính là 3 đòi hỏi căn bản và cần thiết mà nhân loại cần phải thực hiện để thế giới được thái bình, chấm dứt nạn Cộng Sản Vô Thần, một chủ thuyết sẽ gieo rắc lầm than, đau khổ và khốn khó cho nhân loại. Ngoài ra, Ðức Mẹ còn tiết lộ cho ba trẻ được thị kiến lúc bấy giờ là Lucia, Giaxinta, và Phanxicô 3 điều bí mật, được gọi là Bí Mật Fatima.



Từ ngày đó, nhân loại đã trải qua những năm tháng chờ đợi trong sự tò mò. Nhiều người muốn biết những điều bí mật ấy là gì, có liên quan như thế nào đến vận mệnh của mình, vận mệnh thế giới? Gần đây, nhân loại đã thở phào nhẹ nhõm khi biết tất cả 3 điều bí mật ấy đã được công bố, nước Nga đã từ bỏ chủ thuyết Cộng Sản, và Cộng Sản Ðông Âu cũng đã tan rã. Không còn Cộng Sản Nga nữa, và 3 điều bí mật ấy cũng không liên quan gì đến con người, và không ảnh hưởng mạnh mẽ đến thế giới nên Fatima bắt đầu đi vào quên lãng. Sứ điệp Fatima , vì thế, cũng có ít người quan tâm đến.



Nhưng thật bất ngờ, ngày 8 tháng 1 năm 2009 vừa qua, trong buổi triều yết dành cho các nhân viên ngoại giao của 177 quốc gia có liên lạc ngoại giao với Tòa Thánh, Ðức Bênêđíctô XVI đã phát biểu như sau: “Tương lai bây giờ bị lâm nguy hơn trong quá khứ, nhưng chúng ta không nên ngã lòng, đúng hơn, phải tăng gấp đôi sự dấn thân cho hòa bình.”





Nhân loại lâm nguy:



“Tương lai bây giờ bị lâm nguy hơn trong quá khứ”. Thật vậy, chủ thuyết Cộng Sản do Nga khởi xướng tuy đã được giải thể ở Nga và Ðông Âu, nhưng nó vẫn còn tồn tại ở Trung Hoa, Bắc Hàn, Việt Nam và Cuba . Chủ thuyết Cộng Sản tạm thời chấm dứt, nhưng chủ thuyết Hồi Giáo Cựu Ðoan đang làm cho nhân loại hoảng sợ. Nạn Cộng Sản Vô Thần tuy đã lui vào bóng tối, nhưng một lối sống vô thần khác lại đang ảnh hưởng trầm trọng đến tương lai nhân loại, đó là tư tưởng và lối sống tự do quá khích. Tự do ly dị, phá thai, đồng tính, và hôn nhân đồng tính. 4 chọn lựa này là 4 quái thai của tư tưởng nhân loại thời đại đang tạo nên một bầu tử khí bao trùm sinh hoạt tâm linh con người, khiến Ðức Gioan Phaolô II đã phải đặt cho nó một tên gọi rùng rợn, đó là “văn hóa sự chết”. Và trong thực tế, không mấy ai mà không bị ảnh hưởng, hoặc trở thành nạn nhân của nền văn hóa này.



Thật vậy, nền hòa bình nhân loại hiện đang trên bờ vực thẳm, và tương lai nhân loại không sáng sủa không phải do những vũ khí nguyên tử của Mỹ, Nga, Trung Cộng, và nhiều quốc gia khác trên thế giới. Không phải do ngòi nổ từ Trung Ðông, hoặc nền kinh tế thế giới kiệt quệ như hiện nay. Nhưng sự bấp bênh, nguy hiểm của tương lai nhân loại nằm trong ảnh hưởng của một nền văn hóa toàn cầu, trong đó, người ta cố tình loại bỏ ảnh hưởng và sự hiện hữu của Thiên Chúa.



Lịch sử nhân loại đã minh chứng điều này, trong thế kỷ của chúng ta đang sống, mạng người đã bị cướp đi nhiều hơn nhân mạng đã bị giết vì chiến tranh của tất cả các cuộc chiến tranh từ trước cộng lại. Nhìn vào những con số thống kê của các vụ phá thai trên toàn thế giới, con số lên đến hàng chục triệu mỗi năm. Có cuộc chiến nào suốt trong chiều dài lịch sử đã giết chết hàng chục triệu mạng người một năm? Nhân danh tự do lựa chọn, nhân danh quyền làm mẹ, có đến 60 triệu thai nhi bị giết mỗi năm trên khắp thế giới bằng hành động phá thai. Một hành động dã man, lạnh lùng đến kinh hãi nếu chúng ta nhìn bằng cặp mắt của tâm linh, của trái tim biết rung động. Và hệ quả của nó là gia đình tan nát, hôn nhân mất ý nghĩa, tình yêu bị lợi dụng, luân lý bị suy đồi.



Lịch sử cũng đang chứng minh rằng, con người ngày nay đang trải qua những khủng hoảng trầm trọng về niềm tin. Ðối với những ai tin vào Thiên Chúa họ cũng đang trải qua những cơn bắt bớ, trù dập, và tử đạo mọi ngày. Tại các quốc gia Hồi Giáo cực đoan, tại một vài tiểu bang ở Ấn Ðộ, và tại các quốc gia mà chủ thuyết Cộng Sản còn rơi rớt lại như Trung Hoa, Cuba, Bắc Hàn... sinh hoạt tôn giáo, đặc biệt là Công Giáo vẫn đang bị cấm cách, trù dập với trăm ngàn mánh khóe và thủ đoạn của những nhà cầm quyền. Những Kitô hữu vẫn đang phải tử đạo vì niềm tin và tôn giáo của mình.



Trở lên là tội lỗi và hậu quả của những tín hữu, những người không tin vào Thiên Chúa. Còn thành phần tận hiến thì sao? Câu trả lời mà ai cũng tìm thấy rõ ràng qua biến cố lạm dụng tình dục của các giáo sỹ, và một số giáo phẩm ở Hoa Kỳ, cũng như trên khắp thế giới. “Hương khói Satan đã lọt vào Giáo Hội qua những kẽ hở của đời sống tận hiến”.



Những bấp bênh của những giải pháp chính trị, kinh tế, cộng với ảnh hưởng của nền văn hóa sự chết, càng làm cho đời sống Kitô hữu ngày càng trở nên hết sức khó khăn và đầy thách đố. Chiến tranh, loạn lạc và hồng thủy không chỉ diễn ra trên mặt nổi của cuộc đời, mà còn là một trận hồng thủy âm ỷ, sâu lắng trong cõi lòng Giáo Hội, và con người. Ðiều này đã được 3 vị Giáo Hoàng cận đại nhìn thấy và đã từng lớn tiếng cảnh báo. Trước đây hơn nửa thế kỷ, Ðức Piô XII đã phát biểu rằng: “Tội lớn nhất của con người thời đại, là đánh mất đi ý thức tội lỗi”. Tiếp đến, Ðức Gioan Phaolô II thì cho rằng, nền văn hóa ngày nay là một “nền văn hóa sự chết”. Và Ðức Bênêđíctô XVI thì cảnh giác thế giới về triết lý sống “tương đối”.



Sống sứ điệp Fatima :



Do việc đánh mất ý thức tội lỗi, nên con người ngày nay làm điều sai trái mà cứ tưởng mình làm đúng. Làm điều tội lỗi mà vẫn cho mình là sống thánh thiện. Thiên Chúa và Satan. Tà và thiện. Tội và phúc được định giá như nhau và đồng đều theo nhu cầu và sự cần thiết của mỗi người. Trong nền “văn hóa sự chết” này, hôn nhân và đồng tính là hai lối sống được quan niệm đều tốt như nhau, và con người có quyền chọn lựa theo nhu cầu và lối sống. Người ta có quyền mang hoặc hủy bỏ một mạng sống, dù đó là mạng sống của con mình nhân danh quyền tự do lựa chọn. Và người ta cũng có quyền cắt đứt sự sống của một người già cả, nhân danh sức khỏe, sự tốn kém trị liệu, và rất nhiều những lý do nhân đạo.



Những điều xấu xa ấy, trước những vấn nạn không thể giải quyết bằng khả năng con người ấy, Kitô hữu chúng ta phải làm gì? Bỏ cuộc? Hay ngồi nguyền rủa cuộc đời? Nguyền rủa bóng tối?



Rất may, sứ điệp Fatima vẫn là sứ điệp mà con người có thể dùng để giải quyết những vấn nạn của xã hội, và những khó khăn cuộc sống. Trong sứ điệp Fatima , 3 phương thế thực hành đã được Ðức Maria nhắc đến: Cải thiện đời sống. Tôn sùng Trái Tim Mẹ và Lần Hạt Mân Côi. Tuy nhiên, cả ba điều kiện trên đều không dễ thực hiện mặc dù xem ra như nhỏ mọn và tầm thường.



Trên thực tế, chẳng mấy ai nhận mình có lỗi và vì thế cũng chẳn mấy ai nghĩ mình cần phải sửa lỗi. Ðiều này dễ hiểu, vì một khi đã đánh mất niềm tin, đánh mất ý thức tội lỗi, thì làm gì còn thấy mình có lỗi để sửa lỗi. Ðiểm trùng hợp giữa hai nhận xét của Ðức Piô XII và Ðức Bênêđíctô XVI là vì đánh mất ý thức tội lỗi, nên con người thời đại nhìn gì cũng chỉ thấy những giá trị tương đối.



Nhận ra cái tuyệt đối. Phân biệt giữa đen và trắng thì tương đối dễ hơn là phân biệt giữa trắng nhiều và trắng ít, giữa đen nhiều và đen ít. Giữa một cái áo trắng nếu có vết bẩn nào dính vào, nó hiện ra rõ ràng, nhưng trên một mảnh vải đen thì một vài vết bẩn không còn là điều khiến cho ta quan tâm nữa. Cái nguy hiểm của quan niệm và lối sống này làm cho con người không cảm thấy nhu cầu cần phải sửa sai hay thăng tiến. Ảnh hưởng của nó đã biến thành một độc dược tỏa lan trong không khí sinh hoạt để biến nền văn hóa sự sống thành “nền văn hóa sự chết”.



Do đó, để nhận ra điều cần phải sửa đổi cần thiết con người phải tìm gặp và tiếp cận với Ðấng thiêng liêng, cao cả. Và sự tiếp cận ấy là lời cầu nguyện. Mẹ Maria đã giới thiệu phương thế cầu nguyện rất đơn sơ bằng chuỗi Mân Côi. Mẹ cũng lôi kéo tâm hồn con người về với tình thương Thiên Chúa qua hình ảnh trái tim của một hiền mẫu.



Ðể phục hồi nền văn hóa sự sống, để cứu vãn nhân loại và thế giới khỏi đi sâu vào con đường diệt vong, con đường tự hủy diệt, cần phải có một phép lạ. Nhưng phép lạ ấy sẽ không thể nào sẩy ra nếu không có sự can thiệp của Mẹ. “Người bảo gì hãy làm như vậy” (Gio 2:5), đó là lời của Ðức Trinh Nữ Maria đã nói với các gia nhân trong bữa tiệc cưới tại Canna, và vì làm như lời Mẹ dậy bảo, nên phép lạ nước lã hóa rượu đã được thực hiện.



Nhân loại ngày nay cần những phép lạ của niềm hy vọng để có thể tin tưởng vào Con của Ðức Trinh Nữ Maria giữa một thế giới đã đánh mất niềm tin. Nhân loại ngày nay cũng cần những phép lạ của tình thương giữa một thế giới chết chóc, giữa một thế giới mà nghi kỵ, thù hận gây ra bởi mất niềm tin vào Ðấng đã yêu thương con người nên đã hóa thân làm người. Tất cả những phép lạ này đều được thực hiện bởi Chúa Giêsu, Con Mẹ Maria.



Sứ mạng của hồn nhỏ là yêu thay và đền thay.

Nghề của hồn nhỏ là cầu nguyện.



Nhưng chúng ta không thể yêu được, đền được, cũng như cầu nguyện sốt sắng được nếu như chúng ta không tiếp cận với Chúa qua Mẹ Maria. “Per Mariam ad Jesum”. Nếu Chúa Giêsu là đấng làm nên phép lạ, thì Mẹ Maria là người đề nghị và cầu xin phép lạ ấy cho chúng ta: “Họ hết rượu rồi” (Gio 2:3). Vậy hãy nghe lời Mẹ dậy: “Cải thiện đời sống. Siêng năng lần hạt, và Ðền Tạ Trái Tim Mẹ”. Sứ điệp Fatima vẫn chưa phải là sứ điệp lỗi thời và nó không thể bị quên lãng, vì: “Tương lai bây giờ bị lâm nguy hơn trong quá khứ, nhưng chúng ta không nên ngã lòng, đúng hơn, phải tăng gấp đôi sự dấn thân cho hòa bình.” (Bênêđíctô XVI).

9/8/09

THE PICTURE OF JESUS


The original image of this picture of Jesus appeared in October of 1982, when Jackie Haas was using her 110 Kodak Instamatic camera, taking various shots on a pilgrimage in the Holy Land. When she returned home to Scranton, Pennsylvania, she had her film developed and this image was found in her group of pictures. She thought that someone else's picture had gotten mixed up with hers, as she told her husband that she didn't take the picture or even remember seeing a picture like it. After checking the negatives, there it was on her strip of negatives. Being confused, she took the picture to the priest who had been on the pilgrimage with them and he stated that he had been in the Holy Land many times and had never seen this picture there. It was then shown to another priest in her area, who had traveled and studied in the Holy Land and he also said he had never come across such a picture. Jackie then took the picture to the Travel Agency and they brought it with them to New York to people who study paintings and fresco's and they stated that this picture was not in the Holy Land. Jackie returned three times to the Holy Land after receiving this picture, and each year searched and asked everyone in different areas there as to where this picture might be and no one knew.

The story of the picture started to spread when many of her friends, knew how far and wide her search was taking her and with no answers being found. Jackie and her husband, Secular Franciscans, felt the beauty of the picture and wanted to share it with other people. They began to have prints made and gave them out resulting in many beautiful things happening, even though they never told the story behind the picture. Jackie said she hesitated telling the story because she wanted the picture investigated more thoroughly. It was all mind boggling to her since she could never remember taking the picture and how could one forget taking a picture so beautiful. This picture is now all over the world - Jackie wants it spread, not out of curiosity of where it came from but the picture itself. "He is a portrait of love. It shows in this picture." The Haas' main mission as lay apostles was to bring Christ to people through this photo. Jackie does not make claims that it is a miraculous photo, but the peace that it has brought to thousands is truly the miracle.

For copies of the Jesus Picture, contact: