Pages

24/9/09

LINH HỒN LUYỆN NGỤC TRẢ ƠN ÂN NHÂN ĐÃ CỨU MÌNH

(trả ơn phần linh hồn)



1* Đức Giáo Hoàng Benedictô thứ 8 kể như sau: Cha thánh Anphongsô Lotesi thuộc dòng Tên, bị cám dỗ rất nặng nề về đức khiết tịnh, ngài đã cố gắng mọi cách để giữ mình khỏi sa ngã chước cám dỗ ấy. Ngài chạy đến cầu khẩn cùng Đức Mẹ là Đức Nữ Đồng Trinh vẹn sạch. Đức Mẹ hiện ra dạy ngài sốt sắng cầu nguyện cho các linh hồn Luyện ngục, ngài vâng nghe lời và được khỏi cơn cám dỗ (Charity p. 321).



2* Một người khá giả kia là ân nhân lớn của các linh hồn Luyện ngục. Đêm kia khi ông đang ngủ thì có người đánh thức bảo phải đi xưng tội ngay, càng nhanh càng tốt, bởi tử thần sắp đến rước ông. Ông ta đã nghe lời đi xưng tội, rước Mình Thánh Chúa và đã chết đúng như lời người lạ loan báo. Chúa đã thương ông bởi ông đã thương các linh hồn (Charity p. 321).



3* Sơ Magarita Ebner dòng Thánh Đaminh, rất thân thiết với các linh hồn Luyện ngục. Bà đã hy sinh cầu nguyện và cứu được nhiều linh hồn. Bà rất muốn tiến nhanh trên đường trọn lành kính mến Chúa, nên xin với các linh hồn cách riêng về chủ ý này. Các linh hồn đã trả ơn bà. Chính bà khuyến khích rằng: "Nếu ai muốn tiến tới trên đường trọn lành, hãy nhờ các linh hồn Luyện ngục cầu bầu cho, các linh hồn sẽ giúp được như lòng mong ước" (Charity p. 321).



4* Một Linh mục nói rằng, nhiều năm làm cha xứ, ngài nhận thấy các học sinh lớp giáo lý rất khó nhớ bài học. Ngài đã xoay xở mọi cách để giúp các trẻ em mà kết quả rất kém. Lưỡng lự bởi thấy trẻ em ngoan ngoãn, không lẽ không cho chúng xưng tội rước lễ lần đầu. Nhớ lại đã đọc mấy chuyện về các linh hồn Luyện ngục giúp đỡ, ngài liền bảo các em sáng tối đọc kinh cầu nguyện chỉ cho các linh hồn Luyện ngục xin giúp các em nhớ bài giáo lý. Kết quả rực rỡ, khi khảo bài, các em không những trả lời được các câu hỏi, mà còn trả lời một cách rất xuôi xắn nữa (Charity p. 322).



5* Tại đô thành Paris nước Pháp, có người Công Giáo kia tìm hết cách để khuyên ông già bạn sắp chết ăn năn xưng tội. Cố gắng khuyên bao nhiêu lần mà ông già gân vẫn cứng lòng từ chối. Sau cùng ông nghĩ tới một cách là hứa xin một số lễ cho các linh hồn mồ côi cô độc nhất trong Luyện ngục, xin các ngài giục lòng ông già kia ra mềm mà chịu xưng tội rước lễ như của ăn đàng trước khi chết. Thật lạ lùng, chính ngày cuối đời, ông già đã được ơn đón nhận các Bí tích cuối cùng và chết lành bình an (Charity p. 333).



6* Truyện sau đây xảy ra năm 1884 tại Florence nước Ý, một người Công Giáo tên Parrini theo hội kín Tam điểm. Ông ta đã viết chúc thư rằng, sau khi đấu kiếm với người bạn, nếu ông ta có bị thương, thì cũng không linh mục, mục sư bất cứ đạo nào được quyến dụ ông ăn năn. Sau khi ông chết, chỉ có gia đình và bạn bè được đưa xác, không cần nghi lễ tôn giáo nào hết.

Tới gần ngày định đấu kiếm, ông lại viết một chúc thư khác giống như chúc thư ông ta đã viết hai năm trước. Lập trường cứng rắn không thay đổi. Không tin tưởng tôn giáo, thánh thần nào hết.

Sau 16 hiệp đấu kiếm, ông ta bị thương nặng, chắc chắn chết tới nơi. Người ta khiêng xác hấp hối ông về nhà. Biết mình không qua khỏi, ông nói với bà bạn đi bên cạnh: "Bà làm ơn đi mời linh mục cho tôi, đi thật nhanh, tôi muốn gặp linh mục, tôi chắc chắn muốn gặp, bà đi thật nhanh cho tôi, tôi muốn gặp linh mục".

Khi cha xứ vào phòng ông đang nằm, ông vui như gặp vị sứ giả từ trời xuống. Hai người nói truyện riêng xong, cha xứ ra mời hai người vào làm chứng. Cha xứ đã hỏi ông ta có bằng lòng từ bỏ hội Tam điểm, có chừa đấu kiếm, có rút lại các bài báo nhục mạ Giáo hội không? Ông đã mạnh dạnh tuyên bố trước tượng Chúa để trên ngực, trước cha xứ và hai chứng nhân rằng ông xin từ bỏ hết, ông xin rút lại di chúc chị, xin mọi người tha thứ và cầu xin Chúa tha thứ cho ông ta. Bản tuyên bố từ bỏ này còn giữ lại tại Văn khố Tòa Tổng Giám Mục Giáo phận.

Sau đó ông ta được xưng tội, rước Mình Thánh Chúa. Ông ghì chặt Thánh giá trên môi nài xin ơn tha thứ. Ông chịu các phép Bí tích cuối cùng thật sốt sắng làm mọi người Công Giáo hay không, đang đứng đó cũng phải cảm động. Ông giục lòng tin cậy mến ăn năn tội và cầu xin Đức Mẹ cứu giúp. Cha xứ xức dầu xong, ông tắt thì khi còn đang kêu tên cực trọng Giêsu Maria và ôm Thánh giá trên ngực.

Người này được ơn trở lại là nhờ ai? Là bởi từ đáy lòng ông ta chưa bỏ hẳn đức tin mà bà Mẹ đạo đức đã dạy ông hồi còn nhỏ. Và dù bên ngoài ông chống đạo nhưng ông vẫn hay làm việc bác ái, giúp đỡ người nghèo và các linh hồn Luyện ngục cách rộng rãi. Trong thời gian nhập hội kín Tam điểm, ngày nào ông cũng đọc kinh Vực sâu cầu cho các linh hồn. Mọi khi nghe có người bạn qua đời, ông liền đọc kinh Vực sâu cầu cho họ. Ông đã được chết trong Giáo hội là nhờ các linh hồn Luyện ngục bầu cử cho (Charity p. 336-338).



7* Linh mục Henry người nước Bỉ kể rằng: Sau khi thụ phong linh mục, ngài được cử đi dạy học và giảng đạo tại nước Đức. Ở đâu cha cũng tỏ ra là người bạn tốt của các linh hồn Luyện ngục, và thường được các linh hồn tỏ ra biết ơn. Một lần ở Cologna, sau khi dự đám táng của thầy dòng Phanxicô, cha Henry tiếp tục cầu cho thầy và cho các linh hồn Luyện ngục (Charity p. 338).

Thầy dòng Phanxicô mới qua đời được phép hiện về cảm ơn cha Henry, bởi nhờ lời cầu của ngài mà thầy chỉ phải ở Luyện ngục nửa ngày. Bây giờ thầy được lên Thiên đàng với 24 linh hồn khác cũng nhờ lời cha cầu nguyện cho.

Khi cha Henry được cử đi Wimpfen dạy học, người ta nói với cha có một người mới qua đời, khi còn sống người này đã muốn vào dòng Thánh Đaminh, người này đã giúp nhà dòng rất nhiều, coi như một đại ân nhân của dòng. Cha Henry thương cầu cho ông ta hằng ngày. Tới ngày giáp năm qua đời, ông ta hiện về với người bà con, nhờ người này đến cảm ơn cha Henry đã cầu nguyện cho mình được thoát Luyện ngục.

Sau cùng khi cha Henry gần qua đời, ngài bị bệnh rất đau đớn, nhưng ngài đã được biết trước, nên rất nhìn nhục chịu đựng. Ngài bình tĩnh chờ Đức Mẹ và các linh hồn Luyện ngục đến. Lúc ngài tắt thở, một bà già đã được thấy ngài lên Thiên đàng với 336 linh hồn khác cùng lên với ngài (Charity p. 339).



8* Thầy dòng Simon và thầy Gioan Fabriciô dòng Chúa Giêsu, cả hai đều là ân nhân của các linh hồn Luyện ngục, đã được các linh hồn giúp đỡ khi sắp qua đời. Một số lớn linh hồn Luyện ngục các ngài đã cứu vây quanh giường các ngài để an ủi và khi các ngài qua đời, liền đem linh hồn các ngài về Thiên đàng (Charity p. 341).



9* Một giáo dân đạo đức tại miền Britany nước Pháp rất hay cầu nguyện cho các linh hồn, ông mắc bệnh sắp chết. Người ta mời cha xứ tới cho ông lãnh các Bí tích cuối cùng. Bởi mệt quá, cha xứ đã nhờ cha phó đi thay mình. Khi cha phó tới cho ông ta xưng tội, xức dầu, rước mình Thánh Chúa rồi trở về nhà. Khi đi qua nghĩa địa gần nhà xứ, ngài nghe tiếng gọi lớn: "Hỡi những kẻ chết, chỗi dậy, tới nhà thờ cầu nguyện cho đại ân nhân chúng ta mới qua đời, chúng ta mắc nợ, bởi ông hay cầu nguyện cho chúng ta!"

Cha phó bỗng thấy cửa nhà thờ mở ra và trên cung thánh thắp nến sáng, và ngài nghe có tiếng từ bàn thờ gọi kẻ chết đến cầu nguyện. Rồi ngài nghe tiếng ồn ào các bộ xương cử động bước ra khỏi mồ, xếp hàng đi vào nhà thờ hát kinh cầu cho kẻ chết. Hát xong, các bộ xương lại im lặng trở về mồ mình tại nghĩa địa, nến nhà thờ tắt hết, chung quanh im lặng hãi hùng. Tái mặt sợ hãi, run rẩy, cha phó chạy vào nhà hỏi xem cha xứ có thấy gì như mình không, cha phó thuật lại đầu đuôi, nhưng cha xứ không tin bởi ngài chưa biết người bệnh đã chết hay chưa. Trong khi hai vị còn đang nói, có người nhà vào báo tin bệnh nhân đã qua đời. Cha phó bị ám ảnh mạnh mẽ về những gì đã thấy. Ngài đã xin bỏ xứ để vào dòng, về sau lên chức Bề trên, ngài thường kể lại chuyện này cho anh em nghe mà cầu cho các linh hồn Luyện ngục (Charity p. 339-340).

LỜI CẦU BẦU CỦA CÁC ĐẲNG LINH HỒN

Một xứ đạo Công Giáo ở Châu Mỹ La Tinh mở Tuần Đại Phúc. Các Linh Mục Thừa Sai hăng say giảng thuyết, ban Phép Giải Tội và dâng Thánh Lễ. Các giáo dân lũ lượt kéo đến nhà thờ sốt sắng lắng nghe Lời Chúa và lãnh nhận các Bí Tích. Chỉ duy có 3 nam tín hữu cương quyết không tham dự Tuần Đại Phúc. Họ tuyên bố không thèm đặt chân đến nhà thờ và nhất là không chịu xưng tội.

Bà vợ trẻ của một trong 3 người đàn ông nói trên, buồn bã đến gặp vị Thừa Sai và thưa:

- Cha biết không, nhà con một mực bịt tai không muốn nghe nói đến Tuần Đại Phúc. Vậy con phải làm gì để đưa nhà con trở về với việc sống đạo?

Vị Linh Mục thánh thiện hỏi ngay:

- Anh Chị đã có con cái chưa?

Phụ nữ đáp:

- Thưa Cha 2 đứa, tuổi còn nhỏ!

Cha giảng Tuần Đại Phúc trịnh trọng nói:

- Chị hãy đưa 2 cháu đến nhà thờ rồi cùng với chúng sốt sắng suy gẫm 14 Chặng Đàng Thánh Giá với ý chỉ cầu cho Các Đẳng Linh Hồn nơi Lửa Luyện Tội. Cầu cho những Linh Hồn bị bỏ rơi nhất. Rồi xin Các Đẳng Linh Hồn này cầu cho chồng chị được ơn ăn năn trở lại. Tôi đoan chắc thế nào chị cũng được ơn lành chị xin. Bởi lẽ theo kinh nghiệm, tôi có thể làm chứng với chị 2 điều. Thứ nhất, việc suy gẫm 14 Chặng Đàng Thánh Giá là phương thế rất hữu hiệu - sau Thánh Lễ - để giải thoát các Linh Hồn ra khỏi nơi đền tội. Thứ hai, các Linh Hồn được giải thoát luôn luôn đền ơn bội hậu bằng cách cầu bầu cùng THIÊN CHÚA Nhân Lành ban cho chúng ta điều chúng ta xin.

Người vợ trẻ đạo đức mau mắn thi hành ngay lời khuyên của vị Linh Mục Thừa Sai. Mỗi ngày vào giữa trưa, chị cùng 2 đứa con vào nhà thờ quì gối trước Nhà Tạm có Mình Thánh Đức Chúa GIÊSU KITÔ. Rồi cả 3 mẹ con cùng suy gẫm 14 Chặng Đàng Thánh Giá. Vào cuối mỗi chặng, 2 đứa con thì thầm cầu nguyện thêm:

- Lạy Đức Chúa GIÊSU dấu ái, xin Chúa ban cho các Đẳng Linh Hồn ơn an nghỉ đời đời và cho Ba chúng con được ơn hoán cải.

Và đúng như lời Cha giảng Tuần Đại Phúc tiên báo. Buổi chiều hôm trước ngày kết thúc Tuần Đại Phúc, người chồng và người cha hoang đàng đã thống hối trở về. Ông khiêm tốn đến nhà thờ quì gối trước vị Linh Mục Thừa Sai và xin xưng tội. Sáng hôm sau, ông quì cạnh vợ để tham dự Thánh Lễ và sốt sắng rước Mình Thánh Đức Chúa GIÊSU KITÔ. Sau đó ông âu yếm ôm hôn thật lâu 2 đứa con. Chúng thật là 2 vị anh hùng tí hon đã cùng với hiền mẫu tha thiết xin cho thân phụ ơn ăn năn thống hối, nhờ lời chuyển cầu của các Đẳng Linh Hồn.

.. Câu chuyện thứ hai là một dụ ngôn nhắc nhở các tín hữu Công Giáo hãy chăm lo tu thân tích đức để chuẩn bị ra đi về thế giới bên kia.

Một người có 3 bạn thân. Trong số 3 bạn, người ấy yêu quí cách riêng 2 bạn. Một hôm ông ta bị cáo trước tòa về một trọng tội mà thật ra ông ta không lỗi phạm. Ông vội vã đến gặp 3 bạn thân và nói:

- Ai trong các anh bằng lòng cùng tôi ra hầu tòa và nhiệt tình bênh vực tôi, bởi lẽ tôi là kẻ vô tội?

Người bạn thứ nhất từ chối lấy lý do bận việc. Người bạn thứ hai theo ông ta đến cửa tòa án nhưng vội vàng lui gót vì sợ cơn thịnh nộ của quan án. Người bạn thứ ba - người mà kẻ bị tố cáo không tin tưởng chút nào hết - lại sẵn sàng tháp tùng bạn. Ông ra hầu tòa và can đảm đứng lên bênh vực bạn thân. Ông trưng dẫn lý chứng vững chắc và trình bày với trọn tâm huyết khiến quan tòa đồng ý tuyên bố: Kẻ bị tố cáo được trắng án vì ông ta vô tội!

Sống trên trần gian cũng thế, tín hữu Công Giáo có 3 bạn thân: của cải, họ hàng và việc lành. Khi THIÊN CHÚA gọi tín hữu ra đi về thế giới bên kia và xuất hiện trước tòa án, thì tiền bạc - người bạn chí thân chí ái - hoàn toàn không đi theo con người, nhưng tức khắc bỏ rơi con người. Người bạn thứ hai là Họ Hàng đưa người quá cố đến nơi an nghỉ cuối cùng. Họ rảy Nước Thánh trên mộ rồi từ biệt ra về. Người bạn thứ ba là Các việc lành phúc đức - bạn hiền mà con người ít lưu tâm nhất - lại đi theo con người đến trước Tòa THIÊN CHÚA Chí Công. Chính các việc lành bênh đỡ và khẩn cầu lòng nhân hậu ba la của THIÊN CHÚA, xin Ngài xét xử con người thật khoan hồng.

Tín hữu Công Giáo trong tháng 11 đặc biệt cầu nguyện cho Các Đẳng Linh Hồn, cùng lúc cũng suy tư về Cuộc Sống đời này và Đời Sau.

... ”Từ vực thẳm, con kêu lên Ngài, lạy Chúa, muôn lạy Chúa, xin Ngài nghe tiếng con. Dám xin Ngài lắng tai để ý nghe lời con tha thiết nguyện cầu. Ôi lạy Chúa, nếu như Ngài chấp tội, nào có ai đứng vững được chăng? Nhưng Chúa vẫn rộng lòng tha thứ để chúng con biết kính sợ Ngài. Mong đợi Chúa, con hết lòng mong đợi, cậy trông ở lời Người. Hồn con trông chờ Chúa, hơn lính canh mong đợi hừng đông. Hơn lính canh mong đợi hừng đông, trông cậy Chúa đi, Israel hỡi, bởi Chúa luôn từ ái một niềm, ơn cứu chuộc nơi Người chan chứa. Chính Người sẽ cứu chuộc Israel cho thoát khỏi tội khiên muôn vàn” (Thánh Vịnh 130).

(Abbé Berlioux, ”Un Mois avec Nos Amies les Âmes du Purgatoire”, 1880, 6ème Édition 2004, trang 39+41)

Sr Jean Berchmans Minh Nguyệt

CHUỖI MÂN CÔI TRONG ĐỜI SỐNG CHIÊM NIỆM

Phần I: Chuỗi hạt Mân Côi một kho tàng thiêng liêng vô tận

Chuỗi hạt Mân Côi và đời sống chiêm niệm, mới nghe qua, ta thấy như có gì tương phản: một bên ta nghĩ đến những cụ già, những em bé (có thể là mù chữ), tay lần hạt, miệng rầm rì lập đi lập lại ba bài kinh đơn giản nhất Lạy cha, Kính Mừng và Sáng Danh. Còn một bên là hình ảnh các triết gia, thiền sư, thần nhiệm học cao siêu. Nghĩ như thế có lẽ ta đã lầm vì quên mất rằng, bắt đầu mỗi chục hạt Mân Côi chúng ta đều nhắc nhủ nhau: “Thứ nhất thì ngắm… thứ tư thì ngắm…”. Ngắm là gì? Thưa chính là chiêm niệm đó! Vả lại chuỗi hạt Mân Côi là kinh riêng của Đức Mẹ, mà Mẹ Maria là mẫu mực của đời sống chiêm niệm, như Luca đã chép: “Còn Maria thì Bà giữ kỹ mọi điều ấy và hằng suy đi gẫm lại trong lòng”. (Lc 1,19).

Vậy lần hạt Mân Côi trước hết là đến với Mẹ Maria, hợp lòng hợp ý với Ngài: ôn lại, ghi nhớ mãi trong lòng những gì chứa đựng trong 15 mầu nhiệm của chuỗi Mân Côi, mà ta gọi là các sự VUI-THƯƠNG-MỪNG: tức là Mầu Nhiệm Cứu Độ, từ khởi đầu với Mầu Nhiệm “NGÔI HAI MANG LẤY NHỤC THỂ” cho đến thành tựu viên mãn cuối cùng với Mầu Nhiệm “ĐỨC MARIA ĐƯỢC LÊN TRỜI VINH HIỂN”. Có thể xem chuỗi hạt Mân Côi như một cuốn Tin Mừng kết tinh, rút gọn thân thế và sự nghiệp Đấng Cứu Thế và Mẹ Người là Đấng “Đồng Công Cứu Chuộc”. (Sau đây chúng ta có thể thấy rằng: chuỗi hạt Mân Côi bao gồm cả lịch sử nhân loại và tiến trình của vũ trụ, và như thế có thể xem chuỗi hạt Mân Côi như một bộ Kinh Thánh thu gọn, khác nào như Ngôi Hai nhập thể thâu gọn toàn thể tạo vật dưới hình thức một bào thai bé nhỏ trong lòng băng tuyết của Đức trinh nữ Maria Vô nhiễm vậy). Chuỗi hạt Mân Côi kết tinh như thể để giúp ta nhìn ngắm, noi gương và suy gẫm đến mức gần như đồng hoá trở nên những Giêsu Kitô được sinh hạ cách thiêng liêng bởi Đức Mẹ Maria, tiếp diễn chính thân thể và sự nghiệp cứu độ trần gian mà Chúa Giêsu vẫn tiếp tục qua Nhiệm Thể Người là Hội Thánh. Trong Nhiệm thể ấy, mỗi người chúng ta dù ở đấng bậc nào đều là chi thể có một vị trí, một nhiệm vụ, một chức năng, một ơn thiên triệu độc nhất vô nhị không thể thay thế, dù chỉ là một bé gái chăn cừu 8 tuổi chưa biết chữ, chưa rước lễ vỡ lòng, chưa biết Giáo Hoàng là gì, như Giaxintha Marto ở Fatima.

Ngay bây giờ ta cần khẳng định rằng: lần hạt Mân Côi trước hết là đáp lại lời kêu gọi của Đức Mẹ, thoát ra khỏi cái vỏ sò hạn hẹp, duy kỷ vị kỷ của một tầm nhìn trần tục, để đi vào chính cái nhìn của Đức Mẹ là: hướng về Thiên Chúa. Ta đem chính bản thân và những gì thuộc về mình (gia đình thân bằng quyến thuộc, đồng bào, Hội Thánh, nhân loại và vũ trụ) đặt vào trái tim của Mẹ Maria như một lễ vật, để nhờ phép Chúa Thánh Thần chuyển hoá (khác nào bánh rượu trong Thánh lễ) trở nên Hy lễ tạ ơn đền tạ trong Đức Kitô dâng lên trước toà Thiên Chúa để trở thành nguồn ân sủng tràn xuống trần gian. Chỉ sau đó ta mới xin Chúa, nhờ lời cầu bầu của Mẹ Maria ban cho ta những ơn mà ta xét là cần thiết và hữu ích thực sự (cần xét kỹ những điều ta xin có thực sự hữu ích và cần thiết không? Cần thiết theo nghĩa Chúa dạy: “Chỉ có một điều cần mà thôi”! và hữu ích theo nghĩa tám mối phúc thật, chứ không phải cần thiết hữu ích theo nghĩa thế gian tội lỗi). Nội dung của ba kinh: Lạy Cha, Kính Mừng, Sáng Danh, chủ yếu là thờ lạy, chào mừng, tôn vinh, tán tạ, cho nên trong việc xin ơn, ta chỉ cầu xin một cách bỏ trống, hoàn toàn theo ý Thiên Chúa, ý Đức Mẹ chứ không rõ xin ơn gì cả (đúng như lời thánh Phaolô dạy: Ta không biết cầu nguyện thế nào cho đúng! Nhưng chính Thánh Thần đã cầu nguyện nơi ta!).

Trong tiểu sử cá nhân cũng như lịch sử Hội Thánh và nhân loại, Đức Mẹ Maria quả thực ra tay cứu giúp con cái của Ngài khỏi bước gian nan. Tại Rue du Bac, Lộ Đức, Fatima, Đức Mẹ đã làm nhiều phép lạ (mà một nhà bác học được giải thưởng Nobel về sinh học như Alexis Carel, đã xác nhận là có thực). Ngài thực xứng danh với các tước hiệu: “Có tài có phép”, “Hằng cứu giúp”, “Phù hộ các giáo hữu”, “Yên ủi kẻ âu lo”, “Cứu kẻ liệt kẻ khốn” mà chúng ta đã tôn vinh Mẹ. Nhưng điều cốt yếu khi ta đến với Đức Mẹ là dâng lên một lòng hiếu thảo, mến yêu, khen ngợi, thứ đến là chiêm ngưỡng mà noi gương để trở nên hình ảnh Mẹ, hình ảnh Chúa, rồi sau cùng mới xin ban ơn phúc. Do đó, khi gặp sự gian nan phần hồn cũng như phần xác, ta nên chạy đến cùng Đức Mẹ xin bầu chữa cứu giúp với lòng trông cậy đơn sơ, khiêm nhường và phó thác, thế nhưng đừng bao giờ quên rằng: trước lúc được lên trời vinh hiển, Đức Mẹ Maria đã đứng lặng yên dưới chân Thánh giá, trái tim Vô Nhiễm đã bị lưỡi gươm vô hình đâm thâu, Mẹ ngước mắt nhìn Trái Tim cực thánh Con yêu dấu bị lưỡi đòng đâm thủng, máu và nước chảy ra, mà không hề một lời van xin Chúa Cha cứu con mình khỏi cơn tử nạn. Cũng nên nhớ: Đức Mẹ Maria không cứu các Thánh Anh Hài bị vua Hêrôđê giết, không cứu Stêphanô và Giacôbê khỏi cơn bách hại, không cứu hàng triệu tín hữu Kitô tử đạo, hàng ngàn thừa sai bị thuyền chìm đáy biển khi vượt sóng đi truyền giảng Tin Mừng.

Gần đây, Giaxintha và Phanxicô ở Fatima hai em được Đức Mẹ chọn đã chết yểu sau những cơn bệnh trầm trọng. Nhất là Giaxintha bị giải phẩu hai lần vô hiệu quả, sau cùng chết một mình trong một bệnh viện xa gia đình. Hơn nữa em đã trút hơi thở cuối cùng chính vào lúc người nữ y tá phải ra khỏi phòng chốc lát, vì có việc cần! Như vậy là để ta hiểu rõ ý nghĩa, mục đích, tác dụng của việc lần hạt Mân Côi (cũng như các hình thức khác nhằm mục đích tôn kính Đức Mẹ hoặc thờ phượng Thiên Chúa) là ở chỗ nào! Và cũng là để việc thờ phượng Thiên Chúa và tôn kính Đức Mẹ được thực hiện như lời Chúa phán với người phụ nữ bên bờ giếng Giacóp: “Bây giờ đã đến lúc những kẻ thờ phượng Thiên Chúa phải thờ phượng trong tinh thần và chân lý”. Đành rằng Mẹ Maria có làm nhiều phép lạ để “cứu khổ cứu nạn”, nhưng mục đích chủ yếu của việc Đức Mẹ tỏ mình ra không phải là để cứu khổ cứu nạn. Bởi vì Đức Mẹ là Mẹ của Đấng Cứu Thế, Đấng đã cứu chuộc thế gian bằng cuộc tử nạn của mình, và Đức Mẹ là người Đồng Công Cứu Chuộc với Đấng ấy. Hơn nữa chúng ta ai cũng biết: cứu chuộc thì bằng cây Thánh giá mà thôi.

Như thế, lần hạt Mân Côi chủ yếu là ngắm 15 sự, mà trung tâm là 5 sự THƯƠNG, để cho tư tưởng, tình cảm, ngôn ngữ hành vi và toàn bộ cuộc sống của ta thấm nhuần Tin Mừng để dần dần thân thể của Chúa Giêsu và của Mẹ Maria với thân thể của ta trở nên một, đem lại cho ta một cặp mắt hoàn toàn đổi mới mà nhìn bản thân ta, nhìn mọi người, mọi việc, nhìn tất cả với chính cái nhìn của Thiên Chúa trong kế đồ sáng tạo và cứu độ của Ngài. Chuỗi hạt Mân Côi với 15 sự Vui-Thương-Mừng chính là mầu nhiệm tình yêu sáng tạo và cứu độ của Chúa diễn ra trong cặp mắt yêu thương thiêng liêng của tâm hồn. Mầu nhiệm ấy được “vén màn” lên trong một cái nhìn có thể nói được là “vĩnh cửu”, theo đó mọi sự được soi dõi, chiếu tỏ dưới ánh sáng đức tin: mọi sự được diễn ra đúng như kế đồ của Thiên Chúa là bao trùm, thâu họp tất cả trong Đức Kitô, con Bà Maria; Elisabeth, Zacaria, Anna, Simêon là đại diện cho Cựu Ước (trong bài Magnificat có nhắc đến tổ phụ Abraham), ba vua là đại diện cho các dân ngoại, bò lừa trong máng cỏ đại diện cho loài vật, trong hai thân thể của Chúa Giêsu và của Mẹ Maria đã lên trời, là hai khối vật chất đã được đi vào vinh hiển.

Chuỗi hạt Mân Côi khác nào như chu kỳ phụng vụ toàn niên thâu gọn lại. Cuối cùng mỗi chục hạt đều kết thúc bằng lời chúc tụng Thiên Chúa Ba Ngôi nên có thể nói được rằng mỗi chục hạt đều gồm tóm mọi sự: phát xuất từ Chúa Cha (Lạy Cha) xuyên qua Chúa Giêsu và Mẹ Maria (Kính Mừng) để chảy vào mầu nhiệm căn bản của tất cả là Thiên Chúa Ba Ngôi (Sáng Danh). Mỗi chục hạt là vĩnh cửu ngự xuống trần gian và để đưa trần gian vào vĩnh cửu. Và đó là cốt tuỷ của mầu nhiệm muôn đời mà Thiên Chúa “vén màn” lên để mời gọi chúng ta đón nhận đi vào; đi vào không chỉ để hưởng thụ mà thôi, nhưng còn để thông dự và cộng tác bằng chính cuộc đời hy sinh phục vụ trong lòng mến Chúa yêu người.

Một bé gái chăn cừu như Giaxintha chỉ với chuỗi hạt Mân Côi đã đi xa hơn, lên cao hơn, đào sâu hơn, hơn thế giới linh niệm của Platon, hơn cái vô vi của Lão Tử, cái vô ngã của Phật Giáo, cái thái cực của Khổng Giáo, cái tư duy tự tại của Aristote, cái tư thế của các nhà triết học Cổ Kim. Bởi vì, với kinh Sáng Danh, chúng ta đạt tới mầu nhiệm Ba Ngôi, điều mà không trí tuệ tự nhiên nào tới được. Quả vậy, nếu biết ngắm, thì bất cứ mầu nhiệm nào cũng có thể đưa ta vào đời sống thần hiệp cao thâm được cả. Ví dụ: tác phẩm thần nhiệm lừng danh của thánh nữ tiến sĩ Hội Thánh Têrêxa thành Avila “Lâu đài nội tâm”, cũng chỉ đưa tâm hồn vào phối hợp với Thiên Chúa ở tầng thứ bảy là tuyệt đỉnh. Điều ấy một tâm hồn khi lần hạt và ngắm sự VUI THỨ NHẤT có thể đạt được bằng cách đồng hoá và kết hợp với Mẹ Maria dâng lời “Xin vâng” mà đón nhận Ngôi Hai ngự xuống trong lòng mình một cách thiêng liêng, khác nào như một sự hàm thai mầu nhiệm vậy.

Chỉ thông dự thâm sâu vào SỰ VUI ấy cũng có thể để cho trái tim mình đập cùng một nhịp với trái tim cực sạch của Đức Mẹ. Một ví dụ khác: triết gia Bergson, vị thầy tư tưởng của cả một thế hệ trí thức đầu thế kỷ 20, luôn treo bức ảnh Đức Mẹ lên trời của danh hoạ Murillo trong phòng, vì đối với ông đó là tiêu biểu cuối cùng của sự tiến hoá sáng tạo vũ trụ vật chất này. Từ mầu nhiệm vui thứ nhất NGÔI LỜI BIẾN THÀNH NHỤC THỂ cho đến mầu nhiệm mừng cuối cùng, ĐỨC MẸ ĐƯỢC LÊN TRỜI VINH HIỂN, vấn đề hiểm hóc về tương quan giữa vật chất và tâm linh được giải quyết một cách thần diệu.

Đây không phải là một giáo trình hữu thể học, nhưng đề cập qua một vài vấn đề triết học, để ta ý thức được kho tàng vô tận về mọi mặt của 15 mầu nhiệm chứa đựng trong chuỗi hạt Mân Côi.