PHẦN III: KHI LẦN HẠT MÂN CÔI TA XIN ƠN GÌ CÙNG ĐỨC MẸ
Thứ nhất thì ngắm… ta hãy xin cho được v.v… Ta đến cùng Đức Mẹ Maria, trước hết là để chào mừng Mẹ và Con lòng Mẹ, là hai Đấng đầy ơn phúc, sau nữa là để xin Đức Mẹ cầu cho ta và thế là đủ. Còn cầu xin gì thì ta hoàn toàn phó thác cho lòng thương yêu và sự khôn ngoan của Mẹ. Bởi vì ta thực sự cần gì, những gì hữu ích cho ta theo ý nhiệm mầu của Thiên Chúa, thì Đức Mẹ rõ hơn ta nhiều. Đó là tinh thần của việc dâng mình phụng sự Đức Mẹ theo thánh Louis Maria de Monfort. Từ bỏ mọi ý riêng tư: hoàn toàn phó thác, hiến dâng mọi sự cho Đức Mẹ. Thật đơn giản, nhẹ nhàng và đầy đủ.
Tuy nhiên đó là đỉnh cao mà ta cố gắng vươn lên, còn trong bước đầu khiêm tốn ý thức sự yếu hèn của ta, ta còn phải tập đi từng bước một. Cho nên, cứ như mọi người có lòng tin ở Đức Mẹ, ta xin cùng Đức Mẹ tất cả những gì là tốt lành mà ta nghĩ là cần thiết cho mọi mặt cuộc sống của ta: từ miếng cơm manh áo cho đến các nhân đức và cuối cùng là sự rỗi linh hồn (xin Đức Mẹ cầu cho trong giờ lâm tử là vậy). Ta không kiêu căng tự phụ, ta cần sự nâng đỡ cứu giúp của Đức Mẹ về mọi mặt cũng như cần đến ơn sáng tạo nuôi dưỡng và cứu độ của Chúa (mặt trời, không khí, nước uống, mọi sự cần cho cuộc sống của ta đều vốn là bởi không mà Chúa đã tạo thành và ban không cho ta cả, và ngay từ gốc rễ, chính sự hiện hữu của ta cũng là do Chúa ban cho! Ta đừng quên chân lý căn bản này).
Charles Péguy, E.Mounier, hai nhà đại trí thức Công Giáo, khi có con đau nặng, cũng đi hành hương xin Đức Mẹ ban ơn cứu chữa. Gia đình thánh nữ Têrêxa Hài Đồng, trong cơn trọng bệnh của Têrêxa thời thơ ấu, cũng xin lễ tại nhà thờ Đức Bà Chiến Thắng để xin ơn lành bệnh, thoát khỏi tử vong.
Trong lịch sử Hội Thánh và nhân loại, cũng như trong lịch sử cá nhân Đức Mẹ đã làm phép lạ ban ơn cứu giúp đủ mọi mặt: kinh tế, sức khoẻ, tình cảm, luân lý, quân sự và có lẽ cả… chính ta trước mỗi chục hạt điều chính yếu là xin những ơn thiêng liêng: khiêm nhường, tinh thần yêu người, nghèo khó, nhẫn nhục, vâng lời, ăn năn tội nên, yêu mến sự trên trời (nghĩa là cũng nhằm xin cho được lòng từ bỏ, không quá dính bén những sự dưới đất), chết lành, phúc thiên đàng cho riêng ta cũng như cho hết thảy các linh hồn. Tối thiểu ta cần xét lại xem: miệng lưỡi ta thì xin như vậy đó, nhưng thâm tâm ta thực tình ước ao những gì? Ta có thể thực lòng ao ước những ơn thiêng liêng ấy không? Ta có thực sự thao thức băn khoăn đến sự cứu rỗi các linh hồn coi đó là ưu tư trọng đại nhất của lòng ta như em bé Giaxintha Marto ở Fatima không? Hay miệng ta xin một đàng mà lòng ta lại ao ước một nẻo?
Có lẽ đây là điều ta cần ăn năn trở lại không ngừng, chẳng riêng gì kẻ cướp của giết người, tà dâm nặng nề mới phải trở lại, mà đúng ra tất cả mọi người chúng ta đều cần phải trở lại, phải xét lại xem những ao ước của lòng ta có khác gì những ao ước của những kẻ không có đức tin chăng? Trong Tin Mừng Chúa có nói “Nếu thế thì các ngươi có làm gì lạ? Mà người ngoại cũng không làm thế sao?”. Vâng, yêu kẻ thương mình, ghét kẻ hại mình, muốn được người ta khen, muốn được người ta trả ơn v.v… có gì là xấu đâu! Nhưng như vậy thì khác với kẻ không biết Chúa ở chỗ nào? Còn gì là muối, là men, là ánh sáng??? Trong kinh “Thú nhận” ta thường quên cái khoản những điều thiếu sót. Cần xét kỹ hơn một tí, nhất là dưới sự soi sáng toả ra từ lời của Chúa: “Các con hãy nên trọn lành như Cha các con trên trời” (Mt 5,48). Chúa không ép buộc nhưng mời gọi. Lời mời gọi ấy Chúa gởi đến tất cả mọi người thuộc mọi đấng bậc chứ không phân biệt ai (đấng bậc trong Hội Thánh chỉ là sự phân công trong Nhiệm Thể chứ không phải là chuyên viên độc quyền nên thánh). Giaxintha ở Fatima chẳng là gì cả, chỉ là một phụ nữ tiểu tư sản, lo tề gia nội trợ đảm đang, làm ăn lương thiện để có của hồi môn cho năm cô con gái (đi tu hay lập gia đình cũng vậy, đều phải có của hồi môn) thế thôi! Ngay từ đầu, thánh Phaolô đã gọi anh chị em tín hữu là thánh. Suy cho cùng, như thế là phải: là con cái Thiên Chúa, con cái Đức Mẹ, anh em với Chúa Giêsu, đền thờ Chúa Thánh Thần mà không gọi là thánh thì gọi là gì?
Đơn giản hơn, trước mỗi chục kinh Kính Mừng, khi đọc kinh Lạy Cha ta xin gì? Điều đó ai cũng thuộc lòng: xin được hằng ngày dùng đủ, được khỏi sự dữ (ta quan niệm sự dữ lớn nhất là gì? Hãy tự xét mình xem rồi tự trả lời cách thành thật nếu đúng thì tạ ơn Chúa, nếu cảm thấy sai thì… sao?). Tuy nhiên, phần đầu của kinh Lạy Cha mới là đúng! Thử hỏi: trong thâm tâm ta có thực sự khao khát ba điều: Danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện không? Hay là ngược lại, ta xin Cha hãy làm theo ý riêng con!?
Cứ xét mình thật kỹ sẽ hiểu vì sao lời cầu nguyện của ta không kết quả, mọi sự trên trần gian vẫn nát bét hơn tương, và bản thân ta vẫn chẳng ra gì? Đức Mẹ là Đấng Hằng cứu giúp thì ta hãy xin Đức Mẹ cứu giúp ta khỏi những gì. Hỏi tức là đã trả lời! Và đừng quên rằng Chúa Giêsu và Đức Mẹ là hai Đấng thấu suốt tâm can và lòng dạ con người! Dối người thì dễ, dối mình còn tạm dễ, nhưng dối Chúa Giêsu và Đức Mẹ thì không được đâu!... Hiểu như vậy, ta sẽ thấy ngay tại sao trong những lần hiện ra, Đức Mẹ thường ít khi vui, thậm chí đôi khi còn bưng mặt khóc! Bản thân Đức Mẹ cũng như Chúa Giêsu đã đi vào vinh hiển phúc lạc rồi, tại sao Đức Mẹ còn khóc? Mẹ khóc là khóc vì ta, khóc cho ta! Ta tính sao đây! Ta đến với Đức Mẹ làm gì đây? Ta nên ưu tiên xin Đức Mẹ cái gì đây?
Muốn biết nên xin Đức Mẹ ban cho điều gì, trước hết đừng xem chuỗi hạt Mân Côi như một cái máy, cứ vặn đủ vòng (150 kinh Kính Mừng) là tự động đạt một kết quả nào đó theo kiểu đèn thần Aladin. Trái lại phải cố gắng tập trung tinh thần, đi vào nội tâm, gạt bỏ những tư tưởng, hình ảnh, tình cảm, ý muốn hỗn tạp (lắm khi rất hoen ố) phải thanh lọc tâm tư, vận dụng mọi khả năng tâm hồn hướng về Chúa và Đức Mẹ, đem lý trí, tư tưởng, cảm tình, ý chí áp dụng vào những nội dung chứa đựng trong 15 sự VUI-THƯƠNG-MỪNG, mà nhìn ngắm, suy niệm, khơi động tâm tình và điều chỉnh ý chí.
Nói rõ hơn ta lấy ánh sáng toả ra từ các mầu nhiệm mà soi dọi cuộc đời mình, từ mối tương quan với Thiên Chúa, với tha nhân đến các sự việc xảy ra trong đời sống toàn diện để điều chỉnh tư tưởng, cảm tình, ý muốn hành động của mình biến đổi theo gương cuộc đời của Chúa, của Đức Mẹ, có như thế, chuỗi hạt Mân Côi mới đưa ta đến chỗ sống với Chúa, với Đức Mẹ, như sống với những kẻ thân thích gần gũi. Như thế giữa vợ chồng, cha mẹ, con cái, anh em có chung cùng một cuộc sống với nhau, ràng buộc chặt chẽ với nhau trong một mối dây thân ái, khăng khít cùng một cơ nghiệp, cùng một sứ mạng do Thiên Chúa ủy thác phải cùng nhau chu toàn cho trọn vẹn. Nhớ đến Chúa, nhớ đến Mẹ là sống như kẻ nữ tỳ, người nô bộc, luôn luôn đưa mắt nhìn lên tay chủ nhà, nhận mệnh lệnh, cố gắng thuận tình tuân thủ cho đẹp lòng chủ nhà. Đó là điều ta phải xin Đức Mẹ giúp ta thực hiện “khi nay” mãi mãi cho đến giờ lâm tử (là cái “khi nay” cuối cùng) rồi các điều khác sẽ được ban thêm cho sau.
Là những con người có giới hạn về mọi phương diện, ta khiêm nhường, đơn sơ cậy trông, xin Đức Mẹ ban cho ta tất cả mọi điều mà ta nghĩ là cần thiết hữu ích cho ta về tất cả mọi mặt. Nhưng ta phải biết điều gì là quan trọng chủ yếu, điều gì là thứ yếu; điều gì thực sự hữu ích và cần thiết chẳng những về lâu về dài, mà về sau mãi mãi, ở nơi mà như Lời Chúa nói “kho tàng không bị mối mọt nhấm nát” là nơi có viên ngọc quý giá vô cùng (Mt 6,19-21).
Ta biết rằng được Chúa chọn ta làm con cái Chúa là vinh dự và hạnh phúc lớn lao, nhưng cũng là được Chúa giao cho trách nhiệm khó khăn. Chúa chẳng giấu ai điều ấy cả: “vác thập giá mình hằng ngày, vào cửa hẹp, từ bỏ mình và mọi sự bị bách hại v.v”… Đó là điều kiện sống của người mang danh kitô hữu có thể nói là quy luật muôn đời của họ (nghĩa là đời nào cũng vậy thôi). Do đó, họ cần được ơn phù trợ cứu giúp – “phù trợ cứu giúp” đây là để được thêm dũng lực can trường mà phấn đấu với thử thách gian lao (có thể đi đến khổ nạn như Chúa), chứ không phải để được cứu khổ cứu nạn, thoát khỏi gian lao như người ngoại cầu xin thần linh của họ.
Đến với Chúa thế nào, đến với Đức Mẹ thế ấy: cứ suy niệm về cuộc đời ngắn ngủi của em bé chăn cừu 8 tuổi làng Fatima được Đức Mẹ thương riêng tuyển chọn là Giaxintha Marto thì sẽ rõ. Nếu cứ xin Đức Mẹ cứu khổ cứu nạn thì có lẽ Đức Mẹ cũng thương tình đoái nhận, nhưng chắc là Đức Mẹ sẽ buồn như Chúa Giêsu đã phải buồn nhìn theo người thanh niên bỏ đi, không đáp lại lời Chúa mời gọi từ bỏ mọi của cải mà theo Chúa! Cũng như Chúa, Đức Mẹ không nài ép cưỡng bách, Ngài chỉ mời gọi: “Ai muốn theo Tôi thì…”. Muốn hay không cái đó ta hoàn toàn tự do. Ta có muốn làm vui lòng Chúa Giêsu, làm vui lòng Đức Mẹ không?
Pages
24/9/09
CHUỖI MÂN CÔI TRONG ĐỜI SỐNG CHIÊM NIỆM
PHẦN II: ĐỂ NHỚ ĐẾN MẸ THẦY VÀ CÙNG NGÀI NHỚ ĐẾN THẦY
Lần hạt Mân Côi mục đích chính là để ngắm mầu nhiệm cứu độ mà Thiên Chúa đã mạc khải cho ta qua 15 sự, ngắm với con mắt và trái tim của Mẹ Maria để dễ ghi nhớ mãi trong lòng như Ngài; ta không thể không liên tưởng tới một chữ nhớ nào khác ngoài chữ nhớ trong lời Chúa Giêsu khi Ngài lập phép Thánh Thể - Bí Tích Tình Yêu: “Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”. Trong suốt Thánh Kinh, ta cũng thấy các tác giả luôn nhắc nhủ dân Chúa nhớ đến các việc Thiên Chúa đã làm, nhất là trong lễ Vượt Qua ghi nhớ sự cứu thoát khỏi ách nô lệ Ai Cập; đi qua Biển Đỏ tiến vào Đất Hứa để được tự do thờ phượng Thiên Chúa.
Lễ VƯỢT QUA mà chính cuộc tử nạn và phục sinh của Chúa Giêsu mới là hiện thực vĩnh cửu. Sự vượt qua mà Hội Thánh cử hành mỗi năm vào lễ Phục Sinh, hàng tuần vào mỗi chúa nhật, cũng như trong thánh lễ hàng ngày: “Chúng con loan truyền việc Chúa chịu chết và tuyên xưng việc Chúa sống lại cho tới khi Chúa lại đến”. Sự nhớ lại ấy cũng chính là điều ta làm dưới một dạng thức khác khi ta suy gẫm 15 mầu nhiệm của chuỗi Mân Côi, chỉ có khác là ở đây hình ảnh Đức Mẹ được tô đậm rõ nét hơn. Chu kỳ phụng vụ toàn niên (trong đó Thánh lễ tạ ơn là trung tâm) mà Hội Thánh Hiền Thê của Chúa Giêsu dâng lên trước toà Thiên Chúa, như được dàn trải, mở rộng bằng hai dòng phụ lưu là Kinh Nhật Tụng của các linh mục, tu sĩ và chuỗi hạt Mân Côi của giáo dân. Nếu xem cuộc sống trần gian này là cuộc xuất hành của dân Chúa qua muôn thế hệ đang vượt qua Biển Đỏ trần thế để đi vào Đất Hứa muôn đời, thì Thánh lễ chính là Manna hằng sống làm lương thực ăn đàng, còn Kinh Nhật Tụng và chuỗi hạt Mân Côi khác nào như hai ca đoàn, một do Chúa Thánh Thần làm nhạc trưởng, còn một do Đức Mẹ điều khiển. Vì tự bản chất các giờ Kinh Phụng Vụ cũng như chuỗi hạt Mân Côi chủ yếu nhắm chào mừng, chúc tụng, thờ lạy, ngợi khen và cảm tạ, lời kêu cầu chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ, song song với 150 Thánh Vịnh là 150 kinh Kính Mừng, kính chào Bà có phúc lạ, ngay cả khi ngắm năm sự Thương cũng là lời chào mừng.
Hơn nữa, lời kinh của Đức Mẹ là bài “Magnificat” được Hội Thánh giao cho các linh mục và tu sĩ đọc lại hằng ngày trong giờ kinh chiều. Bài tạ ơn ấy của Đức Mẹ Maria chẳng khác nào nơi mà hai dòng phụ lưu ấy gặp nhau để cùng chảy vào trái tim Mẹ Maria để dâng lên trước toà Thiên Chúa. Hai dòng kinh phụ lưu ấy chẳng khác gì hai bè của ca đoàn phụ vào cho lời kinh cảm tạ chính thức là kinh Tiền Tụng trong Thánh lễ. Thánh lễ là dòng chính, các giờ Kinh Phụng Vụ và chuỗi hạt Mân Côi là hai dòng phụ kết hợp thành của lễ duy nhất hằng liên lỉ từng giây phút, từ mọi nơi trên mặt đất bay lên không ngớt trước toà Thiên Chúa “để ca tụng tôn vinh Danh Chúa và mưu ích cho chúng con cùng toàn thể Hội Thánh Người”.
Nhớ đến Thầy, nhớ đến Mẹ Thầy (cũng như nhớ đến những việc kỳ diệu Chúa đã làm, cả trong thời Cựu Ước cũng như trong thời Tân Ước, trong lịch sử Hội Thánh). Không phải chỉ là hoài niệm những việc quá khứ mà thôi! Song là luôn nghĩ đến một thực tại có chiều kích miên trường đang tiếp diễn hiện hành qua thừa tác vụ của Hội Thánh, trong đó mỗi tín hữu là một chi thể, một thành viên có chức năng, có nhiệm vụ tuỳ theo ơn gọi phải chu toàn để ý Cha thể hiện dưới đất (nơi chúng ta) cũng như ở trên trời (nơi Chúa Giêsu, Đức Mẹ và các Thánh đã đi vào vinh hiển). Qua trung gian đời sống mỗi tín hữu cũng như qua sinh hoạt toàn diện của Hội Thánh, một mặt thực tại ấy có tác dụng biến cải đời sống mỗi tín hữu thành hình ảnh Chúa Giêsu và Đức Mẹ ngày một hơn, mặt khác một cách gián tiếp, thực tại ấy sẽ chi phối lên lịch sử nhân loại và sự tiến hoá của vũ trụ về chiều sâu và lâu dài như muối của thế gian, như men trong bột. Thực tại siêu nhiên ấy, với sức tác động sâu xa và bền bỉ của nó, do Chúa Thánh Thần, thực hiện lời Chúa hứa: “Thầy ở lại với chúng con mọi ngày cho đến tận thế”. Sự hiện diện ấy đối với một số tâm hồn được ơn đoàn sủng, có thể biểu lộ một cách hiển hiện.
Đối với Đức Mẹ Maria cũng có một cái gì tương tự: thân thể của Đức Mẹ cũng đã đi vào vinh hiển, nghĩa là cũng đã ở vào một trạng thái vượt qua những giới hạn của không gian và thời gian, nên cũng có khả năng hiện diện ở mọi nơi và mọi lúc, và sự tác động của Đức Mẹ cũng có tầm mức phổ biến tương tự. Cũng như Chúa Giêsu, Đức Mẹ cũng có khả năng tỏ hiện sự hiện diện của mình cho những tâm hồn đã đạt mức sống thiêng liêng nào đó: hoặc là tỏ mình qua sự cảm nghiệm nội tâm, hoặc là tỏ mình qua sự cảm nhận giác quan như với Catherine Labouré, Bernadette, ba trẻ ở Fatima… thường thì một sự cảm nghiệm nội tâm tạo nên như một khí quyển thiêng liêng đùm bọc, che chở, tác động, trong đó bóng dáng nhiệm mầu của Đức Mẹ dường như luôn luôn có mặt. Chuỗi hạt Mân Côi cũng như các kinh tôn kính Đức Mẹ, là những phương tiện giúp ta sống tiếp cận với Đức Mẹ, để dần dần tiến tới trạng thái gần như mang lấy một đời sống thiêng liêng được Maria hoá (tương tự - tuy ở mức độ thấp hơn – như Kitô hoá theo lời Thánh Phaolô: “Không phải tôi sống nữa mà Đức Kitô sống trong tôi”), nơi nào có sự hiện diện của Đức Mẹ, thì có sự hiện diện của Con lòng Mẹ, và có sự tác động của Chúa Thánh Thần, y như trường hợp Đức Mẹ đến thăm Bà Elisabeth vậy.
Ta có thể tin chắc rằng: nơi nào có một tín hữu lần hạt Mân Côi với lòng tin cậy mến thì có sự hiện diện nào đó của Đức Maria với sự tác động của Ngài, tương tự như nơi nào có linh mục đọc lời truyền phép thì Chúa Giêsu ngự xuống, chỉ khác là Chúa Giêsu ngự xuống thực sự dưới dạng bí tích, còn Đức Mẹ thì ngự xuống một cách thiêng liêng. Do đó mỗi lúc ta lần hạt Mân Côi, ta gần như được sống lại cách đầy an ủi vô cùng đẹp đẽ khi Đức Mẹ tới thăm Bà Elisabeth: hai Bà Mẹ, hai Bào Thai, cả bốn đều chào mừng nhau, đều sống dưới tác động của Chúa Thánh Thần mà hợp lòng cất tiếng ca tụng Thiên Chúa với chính lời của Đức Maria: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa”. Lúc ấy ta nhớ đến Chúa, nhớ đến Đức Mẹ, và cái nhớ của chúng ta chẳng qua là đáp lại cái nhớ của Thiên Chúa: “Vì Người nhớ lại lòng thương xót dành cho tổ phụ Abraham và cho con cháu đến muôn đời”. Trong muôn đời ấy, có đời (thời đại) của chúng ta, dù chúng ta ở thời đại nào cũng vậy. Sâu xa hơn nữa, cái nhớ của Đấng sáng tạo: “Từ thuở đời đời Chúa đã nhớ đến con, con là không mà Chúa đã sinh ra có”. Ôi phúc lạc biết chừng nào!
Cuối cùng, lần hạt Mân Côi cũng là một hình thức tuyên xưng, loan truyền mầu nhiệm cứu độ ở khắp nơi và mọi lúc. Mầu nhiệm cứu độ này xuất phát từ lòng thương xót muôn đời của Thiên Chúa tình yêu ban đến cho chúng ta qua Chúa Kitô và Mẹ Maria mà ta đón nhận và chào mừng qua phần đầu của kinh Kính Mừng. Đó là mầu nhiệm mà ta ôn lại, ta nhìn ngắm, ta thông dự, ta tiếp diễn qua 15 sự: VUI-THƯƠNG-MỪNG chứa đựng trong chuỗi hạt Mân Côi, như chính Chúa Giêsu, bào thai chứa đựng trong lòng băng tuyết vô nhiễm của Đức Mẹ, và đồng thời chúng ta cũng được thụ thai trong lòng Đức Maria một cách mầu nhiệm, thiêng liêng dưới sự bao phủ của Chúa Thánh Thần để ta được sinh ra trong đời sống đức tin ở trần gian và trong đời sống vinh hiển mai sau khi đến giờ lâm tử (quả vậy giờ lâm tử được Hội Thánh gọi cách lạc quan là sinh thì – giờ sinh). Chính vì thế xin Đức Mẹ cầu bầu cho ta khi nay và trong giờ lâm tử.
Lần hạt Mân Côi mục đích chính là để ngắm mầu nhiệm cứu độ mà Thiên Chúa đã mạc khải cho ta qua 15 sự, ngắm với con mắt và trái tim của Mẹ Maria để dễ ghi nhớ mãi trong lòng như Ngài; ta không thể không liên tưởng tới một chữ nhớ nào khác ngoài chữ nhớ trong lời Chúa Giêsu khi Ngài lập phép Thánh Thể - Bí Tích Tình Yêu: “Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”. Trong suốt Thánh Kinh, ta cũng thấy các tác giả luôn nhắc nhủ dân Chúa nhớ đến các việc Thiên Chúa đã làm, nhất là trong lễ Vượt Qua ghi nhớ sự cứu thoát khỏi ách nô lệ Ai Cập; đi qua Biển Đỏ tiến vào Đất Hứa để được tự do thờ phượng Thiên Chúa.
Lễ VƯỢT QUA mà chính cuộc tử nạn và phục sinh của Chúa Giêsu mới là hiện thực vĩnh cửu. Sự vượt qua mà Hội Thánh cử hành mỗi năm vào lễ Phục Sinh, hàng tuần vào mỗi chúa nhật, cũng như trong thánh lễ hàng ngày: “Chúng con loan truyền việc Chúa chịu chết và tuyên xưng việc Chúa sống lại cho tới khi Chúa lại đến”. Sự nhớ lại ấy cũng chính là điều ta làm dưới một dạng thức khác khi ta suy gẫm 15 mầu nhiệm của chuỗi Mân Côi, chỉ có khác là ở đây hình ảnh Đức Mẹ được tô đậm rõ nét hơn. Chu kỳ phụng vụ toàn niên (trong đó Thánh lễ tạ ơn là trung tâm) mà Hội Thánh Hiền Thê của Chúa Giêsu dâng lên trước toà Thiên Chúa, như được dàn trải, mở rộng bằng hai dòng phụ lưu là Kinh Nhật Tụng của các linh mục, tu sĩ và chuỗi hạt Mân Côi của giáo dân. Nếu xem cuộc sống trần gian này là cuộc xuất hành của dân Chúa qua muôn thế hệ đang vượt qua Biển Đỏ trần thế để đi vào Đất Hứa muôn đời, thì Thánh lễ chính là Manna hằng sống làm lương thực ăn đàng, còn Kinh Nhật Tụng và chuỗi hạt Mân Côi khác nào như hai ca đoàn, một do Chúa Thánh Thần làm nhạc trưởng, còn một do Đức Mẹ điều khiển. Vì tự bản chất các giờ Kinh Phụng Vụ cũng như chuỗi hạt Mân Côi chủ yếu nhắm chào mừng, chúc tụng, thờ lạy, ngợi khen và cảm tạ, lời kêu cầu chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ, song song với 150 Thánh Vịnh là 150 kinh Kính Mừng, kính chào Bà có phúc lạ, ngay cả khi ngắm năm sự Thương cũng là lời chào mừng.
Hơn nữa, lời kinh của Đức Mẹ là bài “Magnificat” được Hội Thánh giao cho các linh mục và tu sĩ đọc lại hằng ngày trong giờ kinh chiều. Bài tạ ơn ấy của Đức Mẹ Maria chẳng khác nào nơi mà hai dòng phụ lưu ấy gặp nhau để cùng chảy vào trái tim Mẹ Maria để dâng lên trước toà Thiên Chúa. Hai dòng kinh phụ lưu ấy chẳng khác gì hai bè của ca đoàn phụ vào cho lời kinh cảm tạ chính thức là kinh Tiền Tụng trong Thánh lễ. Thánh lễ là dòng chính, các giờ Kinh Phụng Vụ và chuỗi hạt Mân Côi là hai dòng phụ kết hợp thành của lễ duy nhất hằng liên lỉ từng giây phút, từ mọi nơi trên mặt đất bay lên không ngớt trước toà Thiên Chúa “để ca tụng tôn vinh Danh Chúa và mưu ích cho chúng con cùng toàn thể Hội Thánh Người”.
Nhớ đến Thầy, nhớ đến Mẹ Thầy (cũng như nhớ đến những việc kỳ diệu Chúa đã làm, cả trong thời Cựu Ước cũng như trong thời Tân Ước, trong lịch sử Hội Thánh). Không phải chỉ là hoài niệm những việc quá khứ mà thôi! Song là luôn nghĩ đến một thực tại có chiều kích miên trường đang tiếp diễn hiện hành qua thừa tác vụ của Hội Thánh, trong đó mỗi tín hữu là một chi thể, một thành viên có chức năng, có nhiệm vụ tuỳ theo ơn gọi phải chu toàn để ý Cha thể hiện dưới đất (nơi chúng ta) cũng như ở trên trời (nơi Chúa Giêsu, Đức Mẹ và các Thánh đã đi vào vinh hiển). Qua trung gian đời sống mỗi tín hữu cũng như qua sinh hoạt toàn diện của Hội Thánh, một mặt thực tại ấy có tác dụng biến cải đời sống mỗi tín hữu thành hình ảnh Chúa Giêsu và Đức Mẹ ngày một hơn, mặt khác một cách gián tiếp, thực tại ấy sẽ chi phối lên lịch sử nhân loại và sự tiến hoá của vũ trụ về chiều sâu và lâu dài như muối của thế gian, như men trong bột. Thực tại siêu nhiên ấy, với sức tác động sâu xa và bền bỉ của nó, do Chúa Thánh Thần, thực hiện lời Chúa hứa: “Thầy ở lại với chúng con mọi ngày cho đến tận thế”. Sự hiện diện ấy đối với một số tâm hồn được ơn đoàn sủng, có thể biểu lộ một cách hiển hiện.
Đối với Đức Mẹ Maria cũng có một cái gì tương tự: thân thể của Đức Mẹ cũng đã đi vào vinh hiển, nghĩa là cũng đã ở vào một trạng thái vượt qua những giới hạn của không gian và thời gian, nên cũng có khả năng hiện diện ở mọi nơi và mọi lúc, và sự tác động của Đức Mẹ cũng có tầm mức phổ biến tương tự. Cũng như Chúa Giêsu, Đức Mẹ cũng có khả năng tỏ hiện sự hiện diện của mình cho những tâm hồn đã đạt mức sống thiêng liêng nào đó: hoặc là tỏ mình qua sự cảm nghiệm nội tâm, hoặc là tỏ mình qua sự cảm nhận giác quan như với Catherine Labouré, Bernadette, ba trẻ ở Fatima… thường thì một sự cảm nghiệm nội tâm tạo nên như một khí quyển thiêng liêng đùm bọc, che chở, tác động, trong đó bóng dáng nhiệm mầu của Đức Mẹ dường như luôn luôn có mặt. Chuỗi hạt Mân Côi cũng như các kinh tôn kính Đức Mẹ, là những phương tiện giúp ta sống tiếp cận với Đức Mẹ, để dần dần tiến tới trạng thái gần như mang lấy một đời sống thiêng liêng được Maria hoá (tương tự - tuy ở mức độ thấp hơn – như Kitô hoá theo lời Thánh Phaolô: “Không phải tôi sống nữa mà Đức Kitô sống trong tôi”), nơi nào có sự hiện diện của Đức Mẹ, thì có sự hiện diện của Con lòng Mẹ, và có sự tác động của Chúa Thánh Thần, y như trường hợp Đức Mẹ đến thăm Bà Elisabeth vậy.
Ta có thể tin chắc rằng: nơi nào có một tín hữu lần hạt Mân Côi với lòng tin cậy mến thì có sự hiện diện nào đó của Đức Maria với sự tác động của Ngài, tương tự như nơi nào có linh mục đọc lời truyền phép thì Chúa Giêsu ngự xuống, chỉ khác là Chúa Giêsu ngự xuống thực sự dưới dạng bí tích, còn Đức Mẹ thì ngự xuống một cách thiêng liêng. Do đó mỗi lúc ta lần hạt Mân Côi, ta gần như được sống lại cách đầy an ủi vô cùng đẹp đẽ khi Đức Mẹ tới thăm Bà Elisabeth: hai Bà Mẹ, hai Bào Thai, cả bốn đều chào mừng nhau, đều sống dưới tác động của Chúa Thánh Thần mà hợp lòng cất tiếng ca tụng Thiên Chúa với chính lời của Đức Maria: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa”. Lúc ấy ta nhớ đến Chúa, nhớ đến Đức Mẹ, và cái nhớ của chúng ta chẳng qua là đáp lại cái nhớ của Thiên Chúa: “Vì Người nhớ lại lòng thương xót dành cho tổ phụ Abraham và cho con cháu đến muôn đời”. Trong muôn đời ấy, có đời (thời đại) của chúng ta, dù chúng ta ở thời đại nào cũng vậy. Sâu xa hơn nữa, cái nhớ của Đấng sáng tạo: “Từ thuở đời đời Chúa đã nhớ đến con, con là không mà Chúa đã sinh ra có”. Ôi phúc lạc biết chừng nào!
Cuối cùng, lần hạt Mân Côi cũng là một hình thức tuyên xưng, loan truyền mầu nhiệm cứu độ ở khắp nơi và mọi lúc. Mầu nhiệm cứu độ này xuất phát từ lòng thương xót muôn đời của Thiên Chúa tình yêu ban đến cho chúng ta qua Chúa Kitô và Mẹ Maria mà ta đón nhận và chào mừng qua phần đầu của kinh Kính Mừng. Đó là mầu nhiệm mà ta ôn lại, ta nhìn ngắm, ta thông dự, ta tiếp diễn qua 15 sự: VUI-THƯƠNG-MỪNG chứa đựng trong chuỗi hạt Mân Côi, như chính Chúa Giêsu, bào thai chứa đựng trong lòng băng tuyết vô nhiễm của Đức Mẹ, và đồng thời chúng ta cũng được thụ thai trong lòng Đức Maria một cách mầu nhiệm, thiêng liêng dưới sự bao phủ của Chúa Thánh Thần để ta được sinh ra trong đời sống đức tin ở trần gian và trong đời sống vinh hiển mai sau khi đến giờ lâm tử (quả vậy giờ lâm tử được Hội Thánh gọi cách lạc quan là sinh thì – giờ sinh). Chính vì thế xin Đức Mẹ cầu bầu cho ta khi nay và trong giờ lâm tử.
CHUỖI MÂN CÔI TRONG ĐỜI SỐNG CHIÊM NIỆM
PHẦN IV: LẦN HẠT MÂN CÔI VỚI TẤT CẢ KHẢ NĂNG TÂM HỒN
Như ta đã thấy, chuỗi hạt Mân Côi là mầu nhiệm cứu độ của Thiên Chúa tình yêu được thâu gọn trong 15 sự kiện, trình bày dưới một hình thức cụ thể đơn giản, để bất cứ ai cũng có thể nhìn ngắm, suy gẫm, thông dự. Mà đã là tình yêu thì chỉ có tình yêu mới cân xứng. Đỉnh cao của việc lần hạt Mân Côi là hiến dâng tình yêu của ta cho Thiên Chúa qua Trái Tim Đức Mẹ và đón nhận tình yêu từ Thiên Chúa qua trái tim Mẹ. Và lĩnh vực tình yêu thì vô cùng vô tận, muôn hình vạn trạng tuỳ tâm hồn, tuỳ hoàn cảnh, tuỳ tình trạng, không sao quy định được, vì do sự trao đổi hoàn toàn tự do của đôi bên với mối dây liên lạc là chính Chúa Thánh Thần, Đấng bao phủ mỗi một tâm hồn trong sự tín nhiệm như xưa kia đã bao phủ lòng băng tuyết vô nhiễm của Đức Mẹ, không cặp mắt nào của đệ tam nhân có quyền thâm nhập.
Tuy nhiên trước khi đi đến đỉnh cao ấy, ta phải tập huấn từng bước một, để dần dà đưa lòng ta vào nề nếp quy cũ. Quả vậy lòng ta vẫn thường xuyên đầy ắp những xao xuyến, tính toán, những ý tưởng, cảm tình, ước muốn hỗn tạp nên cần phải thanh luyện mới có chỗ cho tình yêu của Chúa Giêsu và Đức Mẹ ngự vào, để từ từ thấm nhuần sâu đậm biến đổi chúng ta thật thâm sâu bền bỉ. Trong bước đầu, ta cần áp dụng một vài phương pháp để dần dần đưa toàn thể con người của ta, từ cơ thể đến trung tâm của con người là linh hồn đi vào mầu nhiệm tình yêu, hay nói đúng hơn, để chính mầu nhiệm tình yêu ngự trị chiếm hữu toàn thể bản thân ta, từ cơ thể đến tâm tình.
1. VỀ CƠ THỂ
Việc tay ta chạm đến các chuỗi hạt Mân Côi, lần từng hạt một, từ từ đều đặn, đọc kinh chậm chạp với một cung bậc nào đó (khi hoàn cảnh cho phép) cũng góp phần vào sự cầm trí. Cũng nên chọn tư thế cho phù hợp: ngồi, đứng hay quỳ. Ngồi thì ngồi ngay ngắn, không uể oải, không bắt chéo chân. Đứng thì đứng thẳng, không dựa tường dựa cột. Cặp mắt khi nhắm, khi ngước lên trời, khi cúi xuống đất, khi nhìn ra xa, nhưng không đảo quanh. Tai không để cho tiếng động xâm nhập. Tất cả những chi tiết ấy ta không làm một cách máy móc, trình diễn, gò bó, nhưng vì tình yêu ta muốn làm mọi việc cách nghiêm túc thì mọi cố gắng nhỏ đều góp phần và việc tu dưỡng tinh thần và đào luyện tâm hồn. Chẳng hạn: ngắm nhìn Chúa hoặc Đức Mẹ lên trời thì nên đứng và ngước nhìn lên. Ngắm nhìn bà Elisabeth chào mừng Đức Mẹ cũng vậy. Trái lại, ngắm Chúa sinh ra trong máng cỏ thì tư thế quỳ hợp hơn… Tuy nhiên trong thực tế thì tuỳ mỗi người và mỗi hoàn cảnh, miễn sao cho cơ thể cũng góp phần vào việc cầu nguyện là được.
2. VỀ GIÁC QUAN
Các giác quan đều phải được điều khiển để khỏi bị phân tán bởi những cảm giác làm phân chia tâm trí. Cách riêng trí tưởng tượng phải được vận dụng để gợi ra những hình ảnh của từng mầu nhiệm với các nhân vật và những sinh hoạt của các nhân vật ấy. Tốt nhất là có được 15 bức ảnh để giúp ta dễ dàng chăm chú nhìn vào tránh khỏi phân tán! Nếu không thì ba tấm, tiêu biểu cho các sự VUI-THƯƠNG-MỪNG. Trong mọi trường hợp đều cần cố gắng tập trung tưởng tượng, gợi ra những hình ảnh và thái độ, ngôn ngữ, hành động và cả tâm tình, tư tưởng của các nhân vật liên hệ. Có như vậy, mới gạt được khỏi đầu óc ta những hình ảnh, những ký ức, những ý nghĩ, những cảm tình, những ước muốn tự phát tự khởi, lôi kéo ta theo dòng tâm lý tự nhiên, có khi không mấy tốt đẹp.
Những hình ảnh, cảm tình, ý nghĩ, ước muốn cao thượng sẽ dần dần đưa ta vào một cuộc sống siêu nhiên sâu xa, bền vững, dần dần thâm nhập vào tiềm thức ý thức và siêu thức, dần dần chi phối cả cuộc đời ta trong mọi lĩnh vực, và biến đổi hẳn con người ta, nhiều khi ảnh hưởng đến cả cách nhìn, cách nghe, cách ăn nói, đi đứng. Nhiều người nhận xét rằng: người kitô hữu nói chung dường như có toả ra một khí quỵển trìu mến, âu yếm, nhất là nơi cặp mắt của các thiếu nữ và các bà mẹ. Nhận xét ấy không phải là không có cơ sở. Thật vậy, một người từ thuở bé đã luôn nghe, nhìn, nghĩ về tình yêu với những hình ảnh dịu dàng của Chúa Giêsu, của Đức Mẹ cũng như của các thánh: Gioan, Magđala, Têrêxa… chắc hẳn không thể không chịu ảnh hưởng ít nhiều.
Các suy gẫm như vậy sẽ giúp ta gần như lồng mọi người, mọi việc, kể cả bản thân ta. Ví dụ: một người thầm nhuần tinh thần Kitô Giáo, thì khi nhìn một em bé tự nhiên liên tưởng đến Chúa Giêsu Hài Đồng, sự liên tưởng ấy sẽ có ảnh hưởng đến cách nhìn, cách đối xử với em bé ấy, và chính cách nhìn, cách đối xử ấy đã là một lời chứng cho đức tin một cách nào đó. Khi đối diện với một cô gái giang hồ, hẳn người kitô hữu liên tưởng đến thái độ của Chúa Giêsu với những người phụ nữ tương tự, và nhờ đó sẽ có thái độ và cách cư xử phù hợp, có thể gieo ảnh hưởng tốt.
Một ví dụ khác: khi tẩm liệm một người mẹ già qua đời, nếu liên tưởng đến Đức Mẹ lên trời, thì lòng thương tiếc tự nhiên tuy vẫn còn, nhưng sẽ thấy một sự bình an nào đó. Hoặc khi chính bản thân ta hay người thân thích phải chịu điều oan ức đắng cay, mà ta biết liên hệ đến bản án oan khiên của Chúa Giêsu (mối phúc thật thứ sáu), thì sẽ có được thái độ và phản ứng thích hợp… Một tâm hồn như vậy, nhất định phải toả ra một cái gì, có thể nói là mang dáng dấp của Chúa Giêsu và của Mẹ Maria. Một tâm hồn như vậy không thể không trở nên muối, men và ánh sáng, dù là rất âm thầm, lặng lẽ, kín đáo.
3. VỀ LÝ TRÍ
Từ các cảm nhận trên, lý trí sẽ suy gẫm về những vấn đề liên hệ đến các mầu nhiệm chứa đựng trong chuỗi hạt Mân Côi, các vấn đề liên hệ trực tiếp đến nội dung đức tin, cũng như những vấn đề tâm lý, luân lý, xã hội, triết lý tự nhiên mà cuộc đời và vũ trụ đặt ra cho con người.
Nếu quen suy gẫm về 15 sự trong chuỗi Mân Côi, dần dần ta sẽ có cách nhìn, cách phê phán, cách lượng giá, cách suy luận theo đúng tinh thần của Tin Mừng trước mọi vấn đề nhờ đó ta sẽ điều chỉnh lại được, và nếu cần thì thay đổi hẳn được lề thói cũ của ta (TRỞ LẠI là vậy đó). Phê phán đánh giá quá theo tinh thần thế gian, dù không xấu và nhiều khi còn đúng nữa, nhưng chỉ đúng theo lý lẽ thế gian, chẳng có gì là Tin Mừng cả! Cứ thử xét lại vài điểm thôi đủ rõ. Ví dụ ta đã từng suy ngắm Chúa Giêsu sinh ra trong máng cỏ hoặc chết trên thánh giá, suy gẫm từ bao nhiêu năm nay, thế nhưng thử hỏi trong cuộc sống ta đã suy nghĩ thế nào, hành động thế nào trước vấn đề giàu nghèo, sang hèn, vinh nhục, thành bại ở đời?
Chẳng mấy ai trong chúng ta là ăn trộm, là đĩ điếm. Điều đó có gì lạ, có gì khác, có gì hơn những người ngoại giáo, bởi vì biết bao người ngoại giáo cũng không hề ăn trộm, không hề đĩ điếm. Nhưng thử hỏi mấy ai trong chúng ta biết đừng quá hăm hở chạy theo thắng lợi trần gian? Đừng quá chán ngán khi thất bại nặng nề? Đừng quá khắt khe với người bị xã hội kết án? Đừng quá đội lên đầu những người được xã hội tôn vinh? Thước đo giá trị ở đời của chúng ta có thực sự là tám mối phúc thật không? Nếu không thì việc lần hạt Mân Côi, việc tham dự thánh lễ của ta có lẽ chưa đạt lắm! Đọc Lời Chúa rồi để đó thì đọc làm gì? Xét mình xưng tội đâu có chỉ loanh quanh luẩn quẩn với điều răn thứ sáu thứ mười, mà phải soi dọi lương tâm từ tám mối phúc thật. Đặc điểm của Kitô Giáo, cái khác hơn của Kitô Giáo là ở tám mối phúc thật, chứ mười điều răn chỉ là tối thiểu, hầu hết các tôn giáo khác và các triết lý đều dạy những điều tương tự! Bằng lòng với cái tối thiểu thì có khác gì với người ngoại giáo bao nhiêu đâu? Như trong gia đình chẳng hạn, tương quan cha mẹ và con cái của chúng ta đã được Kitô hoá đến đâu hay vẫn còn nặng tính cách gia trưởng Khổng giáo? Lắm khi lại là hủ nho hơn là Khổng giáo chính thống! Muốn biết cứ xem việc tổ chức hôn lễ, tang lễ thì rõ.
4. VỀ CẢM TÍNH
Ta hãy khơi dậy những cảm tính cao đẹp nhất từ 15 mầu nhiệm chuỗi Mân Côi, để con tim ta dần dần rung động cùng nhịp với Chúa với Đức Mẹ và với các nhân vật tiếp cận với hai Đấng như thánh Giuse, bà Elisabeth, thánh Gioan, người trộm lành, ông Giakêu v.v…
Ta có thể tạo nên như một thế giới của tâm tình, sống như thể đồng thời với Chúa, với Đức Mẹ để như tạo những mối dây thân tình bằng hữu với các nhân vật được gần gũi với Chúa và Đức Mẹ xưa kia. Ví dụ chiều thứ sáu, ta có thể san chia nỗi đau đớn xót xa của Đức Mẹ, như chính ta sống đồng thời với Đức Mẹ vậy. Sáng thứ hai, ta có thể vui vẻ chào mừng Đức Mẹ, như bà Elisabeth đã chào mừng. Chiều chúa nhật, trong bữa ăn tối, ta có thể chung vui với các Môn đệ trên đường về Emmau được Chúa Phục Sinh tỏ mình dùng bữa chung bàn. Suốt ngày thứ bảy, ta nên sống trong sự chờ đợi cậy trông. Còn ngày thứ tư, ta có thể sống như được thánh Giuse và thánh Gia Thất đến viếng thăm và ở lại nhà mình, như một gia đình thân từ xa đến chơi vậy. Ngày thứ ba, ta có thể san chia cuộc đời bôn ba vất vả giữa quần chúng của Chúa và các Tông Đồ. Còn ngày thứ năm, thứ sáu, có thể noi gương thánh nữ Magaritta Maria à la Coque chia cuộc tử nạn với Chúa, đi sâu vào mầu nhiệm sự dữ với hai khía cạnh khổ và tội của kiếp nhân sinh.
Chúa và Đức Mẹ mời gọi ta sống tiếp cận với hai Đấng trong mọi hoàn cảnh. Thế nhưng, trong những giây phút vui mừng của cuộc sống, ta có thể đem lòng mình lên kết hợp với năm mầu nhiệm Vui và năm mầu nhiệm Mừng của chuỗi hạt Mân Côi để nhờ Đức Mẹ dâng lời cảm tạ Chúa không? Hay ta chìm ngập vào một thái độ hưởng thụ, chiếm hữu, bám víu, hoàn toàn thế tục. Ngược lại, khi ưu sầu phiền não, ê chề tê tái, ta có biết tìm đến với Chúa trong vườn Giệtsimani, không phải chỉ để tìm an ủi, nhưng còn để thông dự với Chúa, với bao nhiều anh chị em khác đã, đang và sẽ uống chén đắng cay của kiếp người, nhưng vẫn yêu đời, vẫn tin tưởng, cậy trông và yêu mến, để nhờ đó ta sẽ can đảm mà dịu dàng, không phẫn nộ oán thù, cũng không hèn nhát trốn chạy, vì trên con đường cay đắng ấy, ta biết ta không cô đơn một mình, nhưng có bạn đồng hành là Chúa trong anh em và anh em trong Chúa.
Bi đát nhất là những lúc ta thấy mình cũng chẳng hơn gì Giuđa, Caipha, Philatô, Hêrôđê, những lúc ấy ta có thể bị hình ảnh Giuđa lủng lẳng treo cổ trên cành cây ám ảnh! Thế nhưng hãy nhớ rằng Phêrô, nền tảng của Hội Thánh, cũng đã hèn nhát chối Chúa ba lần, để rồi như Phêrô, ta sẽ bám chặt lấy Chúa, không phải để bay bổng chơi vơi trong một thế giới huyền ảo lung linh, đẹp như ảo, song là để lăn xả vào cuộc sống, cùng với Cha nhảy xuống biển đời và lòng người đầy sóng gió, bão tố, đầy đau thương và tội lỗi, kể cả chính lòng ta! Phêrô không phải là mây bay lơ lửng trên trời nhưng là đá gieo xuống đáy biển, bởi vì chính Ngôi Hai đã xuống thế làm người.
5. VỀ Ý CHÍ VÀ HÀNH ĐỘNG
Làm người như Chúa Giêsu và với Chúa Giêsu, Đấng đã sinh ra bởi bà Maria.
Làm người nghĩa là sống thực, với cuộc đời thực có sinh ra, có ăn mặc, có lao động, có tiếp vật xử kỷ với trăm nghìn công việc: đánh cá, dệt vải, đi chợ, nấu cơm, xây nhà cầu, dọn chuồng heo, giặt quần áo, nộp thuế, bỏ phiếu, chen mua vé xe, đi dự míttinh, có thể ra toà, tham dự chiến trường, và cũng có thể ngồi tù, thậm chí ra pháp trường, cũng như có thể giữ địa vị quan trọng xã hội quốc gia và quốc tế ở mọi lĩnh vực, kinh tế ngoại giao, văn nghệ, khoa học…
Làm, nghĩa là hành động do sự lựa chọn và quyết định của mình giữa những khả năng mở ra nhiều lối giành lấy cho được hay nhường nhịn? Im lặng hay cãi vã giành phần thắng? Lấy mang đi hay để lại? Tiếp tục nằm xem tiểu thuyết hay đi ra khỏi nhà? Tiến lên hay tháo lui? v.v…Quyết định và chọn lựa chính là lửa thử vàng để rõ chân tướng của mình, đó chính là vị quan toà cuối cùng. Quả vậy, tri giác, tưởng tượng suy luận, cảm giác chỉ là dọn đường chuẩn bị đi đến sống bằng hành động thực tế như Mẹ Maria thưa “Xin vâng” và mang thai Chúa Giêsu. Như Chúa Giêsu thưa “Xin như ý Cha” và dấn thân vào cuộc khổ nạn.
Chiêm niệm Kitô Giáo bao giờ cũng dẫn đến hành động (không có nghĩa là hoạt động rầm rộ, lẫy lừng) dấn thân cho đến cùng (dầu có chết) tức là phải dùng ý chí đi đến những quyết định nhờ ánh sáng toả ra từ Mầu nhiệm cứu độ, chứ không phải từ lý trí khôn ngoan trần thế, hay nói như thánh Phaolô: từ sự điên rồ của Thập giá chứ không phải là sự khôn ngoan của thế gian. Phanxicô thành Atxidi từ bỏ cơ nghiệp giàu có để đi hành khất: điên rồ! Phanxicô Xaviê từ bỏ sự nghiệp trí thức hàn lâm, lê gót chân vượt muôn gian nguy rao giảng Tin Mừng: điên rồ! Bao nữ tu từ bỏ lời mời mọc của những thanh niên ưu tú, dấn thân cuộc đời (có khi trên 70 năm) hãm mình cầu nguyện trong ẩn viện, hoặc phục vụ những bệnh nhân mắc các chứng nan y: điên rồ!...
Đó là nói về những tâm hồn vĩ đại. Còn chúng ta dù sống cuộc đời tầm thường, ta vẫn luôn phải lựa chọn giữa con đường rộng theo thế gian và con đường hẹp theo Chúa luôn phải trở lại, từ con đường rộng chuyển sang con đường hẹp để có thể trung thành với Chúa Giêsu và Đức Mẹ cả trong những việc tầm thường nhỏ nhặt cũng vậy: đời chúng ta nào mấy ai, mấy khi có việc lớn? Nhưng chính những cái nhỏ nhặt dệt nên cuộc đời vẫn luôn đặt ra trước sự lựa chọn: nhảy lên xe này hay đợi xe khác, lên xe rồi tranh hay nhường chỗ tốt, trung thực làm chứng cho sự thật hay a dua nịnh hót dối trá? Bỏ qua hay là cố chấp xét nét về những thiếu sót nho nhỏ hằng ngày của anh em đối với ta. Mượn đồ chậm trả, không chờ cùng đi làm cho tiện, từ chối không giúp ai một việc nào đó… Ngừng lại giúp anh em một tay cho chóng xong để họ về sớm, lo việc nhà hay mặckệ miễn sao mình xong sớm? Mình về trước, ai về sau mặc ai! Về khuya cứ đi nặng bước hay cố gắng đi nhẹ, nói nhỏ để hàng xóm được an giấc, luôn luôn chữ “hay” ấy có sẵn đó như thuốc kiểm nghiệm thực chất lòng ta thế nào so với luật tình yêu: mến Chúa yêu người, mà gương mẫu là những gì chứa đựng trong 15 sự của chuỗi hạt Mân Côi.
Mục đích cuối cùng của việc lần hạt Mân Côi cũng như của việc thờ phượng khác đều nhằm giúp ta biết nhờ sự soi sáng phù trợ của Chúa và Đức Mẹ mà vận dụng ý chí mà lựa chọn, quyết định và hành động trong cuộc sống hằng ngày sao cho hợp với Lời Chúa: “Bỏ mình vác Thánh Giá mỗi ngày mà theo Tôi”. Ngày nay chẳng còn ai đóng đinh ta như đóng đinh Chúa, nhưng thập giá chính là cuộc sống hằng giây hằng phút, từ việc trọng đại đến việc vụn vặt chúng ta đều được mời gọi lựa chọn bỏ mình, bỏ thế gian, bỏ ma quỷ mà theo Chúa, theo Đức Mẹ hay ngược lại, lần hạt Mân Côi là để suy ngắm mà đối chiếu cuộc sống hằng ngày của ta với thân thế sự nghiệp của Chúa và Đức Mẹ, nhờ đó ta điều chỉnh mọi sự cho phù hợp với Lời Chúa, sao cho đẹp lòng Chúa, vui lòng Mẹ chứ không phải để tìm an ủi hay giải khuây như đi xem văn nghệ hoặc trốn chạy cho rãnh sự đời. Chúa phán với Angèle de Foline rằng: “Cha yêu con không phải chuyện đùa”. Yêu là sống chết với nhau chứ không phải chuyện tình cảm mơ mộng viễn vông (dù là mơ mộng thần hiện).
Đòi hỏi của chuỗi Mân Côi là thế đó, nhưng ta đã thực hành ra sao? Xin thử gợi vài câu hỏi để chúng ta cùng suy nghĩ:
- Trong ngắm thứ nhất của năm sự vui, ta thấy một vị Thiên Chúa, Chúa Tể càn khôn, nhập thể thành một bào thai bé tí, nhỏ thua một hạt kê trong lòng một thiếu nữ nghèo nàn, hèn mọn ở một làng quê hẻo lánh. Sau khi suy ngắm sự khiêm tốn ấy, ta mơ ước gì, danh vọng trần gian còn hấp dẫn ta không?
- Trong ngắm thứ hai, Đức Mẹ tuy bụng mang dạ chửa mà vẫn mau mắn lên đường, đi thăm chị em sắp sinh nở, sau đó còn ở lại giúp đỡ thêm ba tháng, trong khi chính mình cũng không khoẻ gì lắm. Việc suy ngắm tình thương ấy giúp ta cải thiện thế nào trong tương quan với thân bằng quyến thuộc?
- Ngắm thứ năm, ta suy ngắm về mầu nhiệm Đức Mẹ và thánh Giuse bị lạc mất Chúa Giêsu, về câu nói Chúa trả lời cho hai ông bà và về thái độ của hai ông bà. Sau những suy niệm ấy, ta đã quan niệm thế nào về liên hệ vợ chồng, cha mẹ, con cái, anh em? Có phải là một cộng đoàn lấy việc giúp nhau “lo việc của Cha trên trời” là chính, hay chỉ là một tổ hợp sản xuất, một hội tương tế trọn đời? Kết hôn để làm gì? Nghi gia, nghi thất, tề gia nội trợ, nương tựa khi ốm đau, già nua, nối dòng nối dõi… là những điếu tốt. Nhưng phải chăng chỉ dừng lại ở đó? Phải chăng ta chỉ xin Chúa và Đức Mẹ ban ơn cho đạt những mục tiêu ấy và lấy thế làm đủ? Hay còn gì khác nữa? (Thử hỏi và xem lại lời cầu nguyện Tôbia và Rêbecca trước khi hợp đầu. Thử suy nghĩ về gia đình song thân của thánh nữ Têrêxa thì sẽ hiểu).
- Khi suy ngắm Đức Mẹ theo chân Chúa vác thánh giá lên núi Sọ, ta thử kiểm điểm xem, ta có quyết định vác lấy những phần việc khó nhọc trong đời sống gia đình, xã hội không? Hay ta cho như vậy là dại, và ta khôn tìm cách dồn cho người khác (rồi lại cười thầm họ là dại!). Ta muốn khôn dại theo tiêu chuẩn nào? Đừng quên rằng trong vườn địa đàng, nguyên tổ cũng chỉ muốn ăn trái cấm để trở nên khôn theo lời xúi giục của ma quỷ! (Cây trái cấm là cây của sự biết tốt xấu, và cây của sự khôn đó). Phanxicô thành Atxidi là khôn hay dại, Tào Tháo là khôn hay dại? Ta muốn chọn khôn và dại theo kiểu nào? Có thật là ta đang theo cái khôn của Đức Mẹ là Đấng “cực khôn cực ngoan” không?
Sự khôn ngoan của Đức Mẹ có giúp ta thấy rằng trong năm sự Vui bao hàm một nhân sinh quan chú trọng vào đời sống nội tâm, kín đáo, âm thầm, hèn mọn? Những sự kiện như Thiên Chúa ngự xuống sinh ra làm người ở trần gian, quả là những sự kiện kinh thiên động địa, hoán cải mặt địa cầu. Thế mà nếu không có Luca ghi lại thì ngàn đời không ai biết được (có lẽ Luca biết được là do lúc già Đức Mẹ kể lại, như bà kể chuyện con cháu nghe thôi). Vậy thì ta còn dại dột hay là khôn lỏi chạy theo những gì rầm rộ nhất thời để rồi tàn lụi nhiều khi còn kéo cả nhân loại vào những cơn máu lửa ngập trời ngập đất? Ta nên khôn theo kiểu Tần Thuỷ Hoàng, Thành Cát Tư Hãn, Napoléon, hay nên dại theo kiểu Phanxicô thành Atxidi, Vinh Sơn đệ Phaolô, Têrêxa Hài Đồng, cha Phêrô Đamiêng, Charles de Foucauld…
Nói tóm lại, lần hạt Mân Côi không phải là làm như vặn máy tự động hoặc đọc lời thần chú để đạt những ước mơ trần gian của mình, theo quan điểm xác thịt trần thế! Lần hạt Mân Côi là tập trung tinh thần suy ngắm Mầu nhiệm cứu độ, mở rộng tâm hồn đón nhận lấy ân sủng đến cho đời ta trở nên một cuộc nhập thế. Tử nạn Phục Sinh được tiếp diễn trong Chúa Thánh Thần, nhờ sự chuyển cầu trợ giúp của Đức Maria là Đấng Đồng Công Cứu Chuộc, là Mẹ sinh ra Chúa Cứu Thế về phần thân xác và là Mẹ sinh ra ta trong ơn cứu độ về mặt thiêng liêng.
Lần hạt Mân Côi với tinh thần trọn đầy ta sẽ từng bước thoát ra khỏi những thành kiến cố chấp, dính bén theo thói đời, và sẽ có một cái nhìn, một cảm xúc, một phong thái đổi mới về toàn thân, về cuộc sống về nhân sinh vũ trụ, được soi sáng dưới ánh sáng chân lý đức tin, ta sẽ đi đến chỗ thấy rõ ràng thế giới siêu nhiên là một thực tại thật sự là thật, và đời sống tâm linh mới là đời sống cơ bản làm nền tảng cho cuộc sống bên ngoài: nhờ đó dù bên ngoài có tầm thường đến đâu, cuộc đời chúng ta cũng có thể mang lấy một chiều kích, một giá trị và một ý nghĩa vĩnh cửu, vô cùng cao đẹp, gần như tuyệt diệu. Mọi sự khác đối với ta sẽ trở nên ấm cúng, ta sẽ không bị chúng làm mê hoặc đồi trụy, nô lệ hay tha hoá nữa. Ngược lại, chúng sẽ trở nên những vật liệu được ta làm chủ và xây dựng chính xác thực tại siêu nhiên mà 15 sự mầu nhiệm chứa đựng trong chuỗi Mân Côi là một sự thâu gọn, bao hàm súc tích và phong phú vô tận.
Đồng thời ta cũng nhờ đó mà trở nên một người mới, được tái sinh bởi Thánh Thần, cuộc đời ta sẽ trở nên đổi mới. Đối với sự đổi mới này thế kỷ 20 hay thế kỷ 1000 lũy thừa vô cực đi chăng nữa cũng vẫn là già cỗi so với thế kỷ thứ nhất, khi thực tại siêu nhiên ấy ra đời với sự hiện diện của Đức Mẹ trong ngày Thánh Thần ngự xuống, khai sinh ra Hội Thánh Chúa Kitô, Hội Thánh mà Đức Mẹ vừa là Nữ Hoàng, vừa là Trưởng Nữ, vừa là tiêu biểu tượng trưng: cái Hội Thánh làm mầm sống cho trời mới đất mới, đã gieo vào vườn trần thế, đợi ngày nở rộ vào giây phút cánh chung, lúc Chúa lại ngự đến.
Mỗi khi ta lĩnh nhận bí tích Thánh Thể, mầm sống đời sống thiêng liêng được gieo vào lòng ta, cây mầm siêu nhiên được tháp vào gốc cây tự nhiên của bản thân ta. Cây thiêng liêng ấy về mặt Bí Tích, được nuôi dưỡng trong lòng Mẹ Hội Thánh. Về mặt siêu nhiên được nuôi dưỡng trong lòng Mẹ Maria mà chuỗi hạt Mân Côi là một phương thế hữu hiệu vào bậc nhất giúp ta tiếp cận với Ngài.
Lần hạt Mân Côi mà biết quy tụ cả toàn bộ hệ thống khả năng bản thân: cơ thể, giác quan, tưởng tượng, lý trí, tình cảm, ý chí như thế, biết hướng về Chúa Giêsu và Đức Mẹ được diễn tả qua 15 sự VUI-THƯƠNG-MỪNG như thế, thì khác nào ta được cưu mang, che chở, bồi dưỡng tăng trưởng về đời sống thiêng liêng trong lòng băng tuyết vô nhiễm của Đức Maria, cho đến ngày mãn nguyệt khai hoa vĩnh viễn, ngày ta được sinh ra trong cuộc sống muốn đời trên Nước Trời muôn thuở.
Như vậy chuỗi hạt Mân Côi xoay vòng luân chuyển khác nào vòng tay Đức Mẹ, khác nào chính cung lòng Đức Mẹ đang đùm bọc che chở ta như một bào thai.
Như ta đã thấy, chuỗi hạt Mân Côi là mầu nhiệm cứu độ của Thiên Chúa tình yêu được thâu gọn trong 15 sự kiện, trình bày dưới một hình thức cụ thể đơn giản, để bất cứ ai cũng có thể nhìn ngắm, suy gẫm, thông dự. Mà đã là tình yêu thì chỉ có tình yêu mới cân xứng. Đỉnh cao của việc lần hạt Mân Côi là hiến dâng tình yêu của ta cho Thiên Chúa qua Trái Tim Đức Mẹ và đón nhận tình yêu từ Thiên Chúa qua trái tim Mẹ. Và lĩnh vực tình yêu thì vô cùng vô tận, muôn hình vạn trạng tuỳ tâm hồn, tuỳ hoàn cảnh, tuỳ tình trạng, không sao quy định được, vì do sự trao đổi hoàn toàn tự do của đôi bên với mối dây liên lạc là chính Chúa Thánh Thần, Đấng bao phủ mỗi một tâm hồn trong sự tín nhiệm như xưa kia đã bao phủ lòng băng tuyết vô nhiễm của Đức Mẹ, không cặp mắt nào của đệ tam nhân có quyền thâm nhập.
Tuy nhiên trước khi đi đến đỉnh cao ấy, ta phải tập huấn từng bước một, để dần dà đưa lòng ta vào nề nếp quy cũ. Quả vậy lòng ta vẫn thường xuyên đầy ắp những xao xuyến, tính toán, những ý tưởng, cảm tình, ước muốn hỗn tạp nên cần phải thanh luyện mới có chỗ cho tình yêu của Chúa Giêsu và Đức Mẹ ngự vào, để từ từ thấm nhuần sâu đậm biến đổi chúng ta thật thâm sâu bền bỉ. Trong bước đầu, ta cần áp dụng một vài phương pháp để dần dần đưa toàn thể con người của ta, từ cơ thể đến trung tâm của con người là linh hồn đi vào mầu nhiệm tình yêu, hay nói đúng hơn, để chính mầu nhiệm tình yêu ngự trị chiếm hữu toàn thể bản thân ta, từ cơ thể đến tâm tình.
1. VỀ CƠ THỂ
Việc tay ta chạm đến các chuỗi hạt Mân Côi, lần từng hạt một, từ từ đều đặn, đọc kinh chậm chạp với một cung bậc nào đó (khi hoàn cảnh cho phép) cũng góp phần vào sự cầm trí. Cũng nên chọn tư thế cho phù hợp: ngồi, đứng hay quỳ. Ngồi thì ngồi ngay ngắn, không uể oải, không bắt chéo chân. Đứng thì đứng thẳng, không dựa tường dựa cột. Cặp mắt khi nhắm, khi ngước lên trời, khi cúi xuống đất, khi nhìn ra xa, nhưng không đảo quanh. Tai không để cho tiếng động xâm nhập. Tất cả những chi tiết ấy ta không làm một cách máy móc, trình diễn, gò bó, nhưng vì tình yêu ta muốn làm mọi việc cách nghiêm túc thì mọi cố gắng nhỏ đều góp phần và việc tu dưỡng tinh thần và đào luyện tâm hồn. Chẳng hạn: ngắm nhìn Chúa hoặc Đức Mẹ lên trời thì nên đứng và ngước nhìn lên. Ngắm nhìn bà Elisabeth chào mừng Đức Mẹ cũng vậy. Trái lại, ngắm Chúa sinh ra trong máng cỏ thì tư thế quỳ hợp hơn… Tuy nhiên trong thực tế thì tuỳ mỗi người và mỗi hoàn cảnh, miễn sao cho cơ thể cũng góp phần vào việc cầu nguyện là được.
2. VỀ GIÁC QUAN
Các giác quan đều phải được điều khiển để khỏi bị phân tán bởi những cảm giác làm phân chia tâm trí. Cách riêng trí tưởng tượng phải được vận dụng để gợi ra những hình ảnh của từng mầu nhiệm với các nhân vật và những sinh hoạt của các nhân vật ấy. Tốt nhất là có được 15 bức ảnh để giúp ta dễ dàng chăm chú nhìn vào tránh khỏi phân tán! Nếu không thì ba tấm, tiêu biểu cho các sự VUI-THƯƠNG-MỪNG. Trong mọi trường hợp đều cần cố gắng tập trung tưởng tượng, gợi ra những hình ảnh và thái độ, ngôn ngữ, hành động và cả tâm tình, tư tưởng của các nhân vật liên hệ. Có như vậy, mới gạt được khỏi đầu óc ta những hình ảnh, những ký ức, những ý nghĩ, những cảm tình, những ước muốn tự phát tự khởi, lôi kéo ta theo dòng tâm lý tự nhiên, có khi không mấy tốt đẹp.
Những hình ảnh, cảm tình, ý nghĩ, ước muốn cao thượng sẽ dần dần đưa ta vào một cuộc sống siêu nhiên sâu xa, bền vững, dần dần thâm nhập vào tiềm thức ý thức và siêu thức, dần dần chi phối cả cuộc đời ta trong mọi lĩnh vực, và biến đổi hẳn con người ta, nhiều khi ảnh hưởng đến cả cách nhìn, cách nghe, cách ăn nói, đi đứng. Nhiều người nhận xét rằng: người kitô hữu nói chung dường như có toả ra một khí quỵển trìu mến, âu yếm, nhất là nơi cặp mắt của các thiếu nữ và các bà mẹ. Nhận xét ấy không phải là không có cơ sở. Thật vậy, một người từ thuở bé đã luôn nghe, nhìn, nghĩ về tình yêu với những hình ảnh dịu dàng của Chúa Giêsu, của Đức Mẹ cũng như của các thánh: Gioan, Magđala, Têrêxa… chắc hẳn không thể không chịu ảnh hưởng ít nhiều.
Các suy gẫm như vậy sẽ giúp ta gần như lồng mọi người, mọi việc, kể cả bản thân ta. Ví dụ: một người thầm nhuần tinh thần Kitô Giáo, thì khi nhìn một em bé tự nhiên liên tưởng đến Chúa Giêsu Hài Đồng, sự liên tưởng ấy sẽ có ảnh hưởng đến cách nhìn, cách đối xử với em bé ấy, và chính cách nhìn, cách đối xử ấy đã là một lời chứng cho đức tin một cách nào đó. Khi đối diện với một cô gái giang hồ, hẳn người kitô hữu liên tưởng đến thái độ của Chúa Giêsu với những người phụ nữ tương tự, và nhờ đó sẽ có thái độ và cách cư xử phù hợp, có thể gieo ảnh hưởng tốt.
Một ví dụ khác: khi tẩm liệm một người mẹ già qua đời, nếu liên tưởng đến Đức Mẹ lên trời, thì lòng thương tiếc tự nhiên tuy vẫn còn, nhưng sẽ thấy một sự bình an nào đó. Hoặc khi chính bản thân ta hay người thân thích phải chịu điều oan ức đắng cay, mà ta biết liên hệ đến bản án oan khiên của Chúa Giêsu (mối phúc thật thứ sáu), thì sẽ có được thái độ và phản ứng thích hợp… Một tâm hồn như vậy, nhất định phải toả ra một cái gì, có thể nói là mang dáng dấp của Chúa Giêsu và của Mẹ Maria. Một tâm hồn như vậy không thể không trở nên muối, men và ánh sáng, dù là rất âm thầm, lặng lẽ, kín đáo.
3. VỀ LÝ TRÍ
Từ các cảm nhận trên, lý trí sẽ suy gẫm về những vấn đề liên hệ đến các mầu nhiệm chứa đựng trong chuỗi hạt Mân Côi, các vấn đề liên hệ trực tiếp đến nội dung đức tin, cũng như những vấn đề tâm lý, luân lý, xã hội, triết lý tự nhiên mà cuộc đời và vũ trụ đặt ra cho con người.
Nếu quen suy gẫm về 15 sự trong chuỗi Mân Côi, dần dần ta sẽ có cách nhìn, cách phê phán, cách lượng giá, cách suy luận theo đúng tinh thần của Tin Mừng trước mọi vấn đề nhờ đó ta sẽ điều chỉnh lại được, và nếu cần thì thay đổi hẳn được lề thói cũ của ta (TRỞ LẠI là vậy đó). Phê phán đánh giá quá theo tinh thần thế gian, dù không xấu và nhiều khi còn đúng nữa, nhưng chỉ đúng theo lý lẽ thế gian, chẳng có gì là Tin Mừng cả! Cứ thử xét lại vài điểm thôi đủ rõ. Ví dụ ta đã từng suy ngắm Chúa Giêsu sinh ra trong máng cỏ hoặc chết trên thánh giá, suy gẫm từ bao nhiêu năm nay, thế nhưng thử hỏi trong cuộc sống ta đã suy nghĩ thế nào, hành động thế nào trước vấn đề giàu nghèo, sang hèn, vinh nhục, thành bại ở đời?
Chẳng mấy ai trong chúng ta là ăn trộm, là đĩ điếm. Điều đó có gì lạ, có gì khác, có gì hơn những người ngoại giáo, bởi vì biết bao người ngoại giáo cũng không hề ăn trộm, không hề đĩ điếm. Nhưng thử hỏi mấy ai trong chúng ta biết đừng quá hăm hở chạy theo thắng lợi trần gian? Đừng quá chán ngán khi thất bại nặng nề? Đừng quá khắt khe với người bị xã hội kết án? Đừng quá đội lên đầu những người được xã hội tôn vinh? Thước đo giá trị ở đời của chúng ta có thực sự là tám mối phúc thật không? Nếu không thì việc lần hạt Mân Côi, việc tham dự thánh lễ của ta có lẽ chưa đạt lắm! Đọc Lời Chúa rồi để đó thì đọc làm gì? Xét mình xưng tội đâu có chỉ loanh quanh luẩn quẩn với điều răn thứ sáu thứ mười, mà phải soi dọi lương tâm từ tám mối phúc thật. Đặc điểm của Kitô Giáo, cái khác hơn của Kitô Giáo là ở tám mối phúc thật, chứ mười điều răn chỉ là tối thiểu, hầu hết các tôn giáo khác và các triết lý đều dạy những điều tương tự! Bằng lòng với cái tối thiểu thì có khác gì với người ngoại giáo bao nhiêu đâu? Như trong gia đình chẳng hạn, tương quan cha mẹ và con cái của chúng ta đã được Kitô hoá đến đâu hay vẫn còn nặng tính cách gia trưởng Khổng giáo? Lắm khi lại là hủ nho hơn là Khổng giáo chính thống! Muốn biết cứ xem việc tổ chức hôn lễ, tang lễ thì rõ.
4. VỀ CẢM TÍNH
Ta hãy khơi dậy những cảm tính cao đẹp nhất từ 15 mầu nhiệm chuỗi Mân Côi, để con tim ta dần dần rung động cùng nhịp với Chúa với Đức Mẹ và với các nhân vật tiếp cận với hai Đấng như thánh Giuse, bà Elisabeth, thánh Gioan, người trộm lành, ông Giakêu v.v…
Ta có thể tạo nên như một thế giới của tâm tình, sống như thể đồng thời với Chúa, với Đức Mẹ để như tạo những mối dây thân tình bằng hữu với các nhân vật được gần gũi với Chúa và Đức Mẹ xưa kia. Ví dụ chiều thứ sáu, ta có thể san chia nỗi đau đớn xót xa của Đức Mẹ, như chính ta sống đồng thời với Đức Mẹ vậy. Sáng thứ hai, ta có thể vui vẻ chào mừng Đức Mẹ, như bà Elisabeth đã chào mừng. Chiều chúa nhật, trong bữa ăn tối, ta có thể chung vui với các Môn đệ trên đường về Emmau được Chúa Phục Sinh tỏ mình dùng bữa chung bàn. Suốt ngày thứ bảy, ta nên sống trong sự chờ đợi cậy trông. Còn ngày thứ tư, ta có thể sống như được thánh Giuse và thánh Gia Thất đến viếng thăm và ở lại nhà mình, như một gia đình thân từ xa đến chơi vậy. Ngày thứ ba, ta có thể san chia cuộc đời bôn ba vất vả giữa quần chúng của Chúa và các Tông Đồ. Còn ngày thứ năm, thứ sáu, có thể noi gương thánh nữ Magaritta Maria à la Coque chia cuộc tử nạn với Chúa, đi sâu vào mầu nhiệm sự dữ với hai khía cạnh khổ và tội của kiếp nhân sinh.
Chúa và Đức Mẹ mời gọi ta sống tiếp cận với hai Đấng trong mọi hoàn cảnh. Thế nhưng, trong những giây phút vui mừng của cuộc sống, ta có thể đem lòng mình lên kết hợp với năm mầu nhiệm Vui và năm mầu nhiệm Mừng của chuỗi hạt Mân Côi để nhờ Đức Mẹ dâng lời cảm tạ Chúa không? Hay ta chìm ngập vào một thái độ hưởng thụ, chiếm hữu, bám víu, hoàn toàn thế tục. Ngược lại, khi ưu sầu phiền não, ê chề tê tái, ta có biết tìm đến với Chúa trong vườn Giệtsimani, không phải chỉ để tìm an ủi, nhưng còn để thông dự với Chúa, với bao nhiều anh chị em khác đã, đang và sẽ uống chén đắng cay của kiếp người, nhưng vẫn yêu đời, vẫn tin tưởng, cậy trông và yêu mến, để nhờ đó ta sẽ can đảm mà dịu dàng, không phẫn nộ oán thù, cũng không hèn nhát trốn chạy, vì trên con đường cay đắng ấy, ta biết ta không cô đơn một mình, nhưng có bạn đồng hành là Chúa trong anh em và anh em trong Chúa.
Bi đát nhất là những lúc ta thấy mình cũng chẳng hơn gì Giuđa, Caipha, Philatô, Hêrôđê, những lúc ấy ta có thể bị hình ảnh Giuđa lủng lẳng treo cổ trên cành cây ám ảnh! Thế nhưng hãy nhớ rằng Phêrô, nền tảng của Hội Thánh, cũng đã hèn nhát chối Chúa ba lần, để rồi như Phêrô, ta sẽ bám chặt lấy Chúa, không phải để bay bổng chơi vơi trong một thế giới huyền ảo lung linh, đẹp như ảo, song là để lăn xả vào cuộc sống, cùng với Cha nhảy xuống biển đời và lòng người đầy sóng gió, bão tố, đầy đau thương và tội lỗi, kể cả chính lòng ta! Phêrô không phải là mây bay lơ lửng trên trời nhưng là đá gieo xuống đáy biển, bởi vì chính Ngôi Hai đã xuống thế làm người.
5. VỀ Ý CHÍ VÀ HÀNH ĐỘNG
Làm người như Chúa Giêsu và với Chúa Giêsu, Đấng đã sinh ra bởi bà Maria.
Làm người nghĩa là sống thực, với cuộc đời thực có sinh ra, có ăn mặc, có lao động, có tiếp vật xử kỷ với trăm nghìn công việc: đánh cá, dệt vải, đi chợ, nấu cơm, xây nhà cầu, dọn chuồng heo, giặt quần áo, nộp thuế, bỏ phiếu, chen mua vé xe, đi dự míttinh, có thể ra toà, tham dự chiến trường, và cũng có thể ngồi tù, thậm chí ra pháp trường, cũng như có thể giữ địa vị quan trọng xã hội quốc gia và quốc tế ở mọi lĩnh vực, kinh tế ngoại giao, văn nghệ, khoa học…
Làm, nghĩa là hành động do sự lựa chọn và quyết định của mình giữa những khả năng mở ra nhiều lối giành lấy cho được hay nhường nhịn? Im lặng hay cãi vã giành phần thắng? Lấy mang đi hay để lại? Tiếp tục nằm xem tiểu thuyết hay đi ra khỏi nhà? Tiến lên hay tháo lui? v.v…Quyết định và chọn lựa chính là lửa thử vàng để rõ chân tướng của mình, đó chính là vị quan toà cuối cùng. Quả vậy, tri giác, tưởng tượng suy luận, cảm giác chỉ là dọn đường chuẩn bị đi đến sống bằng hành động thực tế như Mẹ Maria thưa “Xin vâng” và mang thai Chúa Giêsu. Như Chúa Giêsu thưa “Xin như ý Cha” và dấn thân vào cuộc khổ nạn.
Chiêm niệm Kitô Giáo bao giờ cũng dẫn đến hành động (không có nghĩa là hoạt động rầm rộ, lẫy lừng) dấn thân cho đến cùng (dầu có chết) tức là phải dùng ý chí đi đến những quyết định nhờ ánh sáng toả ra từ Mầu nhiệm cứu độ, chứ không phải từ lý trí khôn ngoan trần thế, hay nói như thánh Phaolô: từ sự điên rồ của Thập giá chứ không phải là sự khôn ngoan của thế gian. Phanxicô thành Atxidi từ bỏ cơ nghiệp giàu có để đi hành khất: điên rồ! Phanxicô Xaviê từ bỏ sự nghiệp trí thức hàn lâm, lê gót chân vượt muôn gian nguy rao giảng Tin Mừng: điên rồ! Bao nữ tu từ bỏ lời mời mọc của những thanh niên ưu tú, dấn thân cuộc đời (có khi trên 70 năm) hãm mình cầu nguyện trong ẩn viện, hoặc phục vụ những bệnh nhân mắc các chứng nan y: điên rồ!...
Đó là nói về những tâm hồn vĩ đại. Còn chúng ta dù sống cuộc đời tầm thường, ta vẫn luôn phải lựa chọn giữa con đường rộng theo thế gian và con đường hẹp theo Chúa luôn phải trở lại, từ con đường rộng chuyển sang con đường hẹp để có thể trung thành với Chúa Giêsu và Đức Mẹ cả trong những việc tầm thường nhỏ nhặt cũng vậy: đời chúng ta nào mấy ai, mấy khi có việc lớn? Nhưng chính những cái nhỏ nhặt dệt nên cuộc đời vẫn luôn đặt ra trước sự lựa chọn: nhảy lên xe này hay đợi xe khác, lên xe rồi tranh hay nhường chỗ tốt, trung thực làm chứng cho sự thật hay a dua nịnh hót dối trá? Bỏ qua hay là cố chấp xét nét về những thiếu sót nho nhỏ hằng ngày của anh em đối với ta. Mượn đồ chậm trả, không chờ cùng đi làm cho tiện, từ chối không giúp ai một việc nào đó… Ngừng lại giúp anh em một tay cho chóng xong để họ về sớm, lo việc nhà hay mặckệ miễn sao mình xong sớm? Mình về trước, ai về sau mặc ai! Về khuya cứ đi nặng bước hay cố gắng đi nhẹ, nói nhỏ để hàng xóm được an giấc, luôn luôn chữ “hay” ấy có sẵn đó như thuốc kiểm nghiệm thực chất lòng ta thế nào so với luật tình yêu: mến Chúa yêu người, mà gương mẫu là những gì chứa đựng trong 15 sự của chuỗi hạt Mân Côi.
Mục đích cuối cùng của việc lần hạt Mân Côi cũng như của việc thờ phượng khác đều nhằm giúp ta biết nhờ sự soi sáng phù trợ của Chúa và Đức Mẹ mà vận dụng ý chí mà lựa chọn, quyết định và hành động trong cuộc sống hằng ngày sao cho hợp với Lời Chúa: “Bỏ mình vác Thánh Giá mỗi ngày mà theo Tôi”. Ngày nay chẳng còn ai đóng đinh ta như đóng đinh Chúa, nhưng thập giá chính là cuộc sống hằng giây hằng phút, từ việc trọng đại đến việc vụn vặt chúng ta đều được mời gọi lựa chọn bỏ mình, bỏ thế gian, bỏ ma quỷ mà theo Chúa, theo Đức Mẹ hay ngược lại, lần hạt Mân Côi là để suy ngắm mà đối chiếu cuộc sống hằng ngày của ta với thân thế sự nghiệp của Chúa và Đức Mẹ, nhờ đó ta điều chỉnh mọi sự cho phù hợp với Lời Chúa, sao cho đẹp lòng Chúa, vui lòng Mẹ chứ không phải để tìm an ủi hay giải khuây như đi xem văn nghệ hoặc trốn chạy cho rãnh sự đời. Chúa phán với Angèle de Foline rằng: “Cha yêu con không phải chuyện đùa”. Yêu là sống chết với nhau chứ không phải chuyện tình cảm mơ mộng viễn vông (dù là mơ mộng thần hiện).
Đòi hỏi của chuỗi Mân Côi là thế đó, nhưng ta đã thực hành ra sao? Xin thử gợi vài câu hỏi để chúng ta cùng suy nghĩ:
- Trong ngắm thứ nhất của năm sự vui, ta thấy một vị Thiên Chúa, Chúa Tể càn khôn, nhập thể thành một bào thai bé tí, nhỏ thua một hạt kê trong lòng một thiếu nữ nghèo nàn, hèn mọn ở một làng quê hẻo lánh. Sau khi suy ngắm sự khiêm tốn ấy, ta mơ ước gì, danh vọng trần gian còn hấp dẫn ta không?
- Trong ngắm thứ hai, Đức Mẹ tuy bụng mang dạ chửa mà vẫn mau mắn lên đường, đi thăm chị em sắp sinh nở, sau đó còn ở lại giúp đỡ thêm ba tháng, trong khi chính mình cũng không khoẻ gì lắm. Việc suy ngắm tình thương ấy giúp ta cải thiện thế nào trong tương quan với thân bằng quyến thuộc?
- Ngắm thứ năm, ta suy ngắm về mầu nhiệm Đức Mẹ và thánh Giuse bị lạc mất Chúa Giêsu, về câu nói Chúa trả lời cho hai ông bà và về thái độ của hai ông bà. Sau những suy niệm ấy, ta đã quan niệm thế nào về liên hệ vợ chồng, cha mẹ, con cái, anh em? Có phải là một cộng đoàn lấy việc giúp nhau “lo việc của Cha trên trời” là chính, hay chỉ là một tổ hợp sản xuất, một hội tương tế trọn đời? Kết hôn để làm gì? Nghi gia, nghi thất, tề gia nội trợ, nương tựa khi ốm đau, già nua, nối dòng nối dõi… là những điếu tốt. Nhưng phải chăng chỉ dừng lại ở đó? Phải chăng ta chỉ xin Chúa và Đức Mẹ ban ơn cho đạt những mục tiêu ấy và lấy thế làm đủ? Hay còn gì khác nữa? (Thử hỏi và xem lại lời cầu nguyện Tôbia và Rêbecca trước khi hợp đầu. Thử suy nghĩ về gia đình song thân của thánh nữ Têrêxa thì sẽ hiểu).
- Khi suy ngắm Đức Mẹ theo chân Chúa vác thánh giá lên núi Sọ, ta thử kiểm điểm xem, ta có quyết định vác lấy những phần việc khó nhọc trong đời sống gia đình, xã hội không? Hay ta cho như vậy là dại, và ta khôn tìm cách dồn cho người khác (rồi lại cười thầm họ là dại!). Ta muốn khôn dại theo tiêu chuẩn nào? Đừng quên rằng trong vườn địa đàng, nguyên tổ cũng chỉ muốn ăn trái cấm để trở nên khôn theo lời xúi giục của ma quỷ! (Cây trái cấm là cây của sự biết tốt xấu, và cây của sự khôn đó). Phanxicô thành Atxidi là khôn hay dại, Tào Tháo là khôn hay dại? Ta muốn chọn khôn và dại theo kiểu nào? Có thật là ta đang theo cái khôn của Đức Mẹ là Đấng “cực khôn cực ngoan” không?
Sự khôn ngoan của Đức Mẹ có giúp ta thấy rằng trong năm sự Vui bao hàm một nhân sinh quan chú trọng vào đời sống nội tâm, kín đáo, âm thầm, hèn mọn? Những sự kiện như Thiên Chúa ngự xuống sinh ra làm người ở trần gian, quả là những sự kiện kinh thiên động địa, hoán cải mặt địa cầu. Thế mà nếu không có Luca ghi lại thì ngàn đời không ai biết được (có lẽ Luca biết được là do lúc già Đức Mẹ kể lại, như bà kể chuyện con cháu nghe thôi). Vậy thì ta còn dại dột hay là khôn lỏi chạy theo những gì rầm rộ nhất thời để rồi tàn lụi nhiều khi còn kéo cả nhân loại vào những cơn máu lửa ngập trời ngập đất? Ta nên khôn theo kiểu Tần Thuỷ Hoàng, Thành Cát Tư Hãn, Napoléon, hay nên dại theo kiểu Phanxicô thành Atxidi, Vinh Sơn đệ Phaolô, Têrêxa Hài Đồng, cha Phêrô Đamiêng, Charles de Foucauld…
Nói tóm lại, lần hạt Mân Côi không phải là làm như vặn máy tự động hoặc đọc lời thần chú để đạt những ước mơ trần gian của mình, theo quan điểm xác thịt trần thế! Lần hạt Mân Côi là tập trung tinh thần suy ngắm Mầu nhiệm cứu độ, mở rộng tâm hồn đón nhận lấy ân sủng đến cho đời ta trở nên một cuộc nhập thế. Tử nạn Phục Sinh được tiếp diễn trong Chúa Thánh Thần, nhờ sự chuyển cầu trợ giúp của Đức Maria là Đấng Đồng Công Cứu Chuộc, là Mẹ sinh ra Chúa Cứu Thế về phần thân xác và là Mẹ sinh ra ta trong ơn cứu độ về mặt thiêng liêng.
Lần hạt Mân Côi với tinh thần trọn đầy ta sẽ từng bước thoát ra khỏi những thành kiến cố chấp, dính bén theo thói đời, và sẽ có một cái nhìn, một cảm xúc, một phong thái đổi mới về toàn thân, về cuộc sống về nhân sinh vũ trụ, được soi sáng dưới ánh sáng chân lý đức tin, ta sẽ đi đến chỗ thấy rõ ràng thế giới siêu nhiên là một thực tại thật sự là thật, và đời sống tâm linh mới là đời sống cơ bản làm nền tảng cho cuộc sống bên ngoài: nhờ đó dù bên ngoài có tầm thường đến đâu, cuộc đời chúng ta cũng có thể mang lấy một chiều kích, một giá trị và một ý nghĩa vĩnh cửu, vô cùng cao đẹp, gần như tuyệt diệu. Mọi sự khác đối với ta sẽ trở nên ấm cúng, ta sẽ không bị chúng làm mê hoặc đồi trụy, nô lệ hay tha hoá nữa. Ngược lại, chúng sẽ trở nên những vật liệu được ta làm chủ và xây dựng chính xác thực tại siêu nhiên mà 15 sự mầu nhiệm chứa đựng trong chuỗi Mân Côi là một sự thâu gọn, bao hàm súc tích và phong phú vô tận.
Đồng thời ta cũng nhờ đó mà trở nên một người mới, được tái sinh bởi Thánh Thần, cuộc đời ta sẽ trở nên đổi mới. Đối với sự đổi mới này thế kỷ 20 hay thế kỷ 1000 lũy thừa vô cực đi chăng nữa cũng vẫn là già cỗi so với thế kỷ thứ nhất, khi thực tại siêu nhiên ấy ra đời với sự hiện diện của Đức Mẹ trong ngày Thánh Thần ngự xuống, khai sinh ra Hội Thánh Chúa Kitô, Hội Thánh mà Đức Mẹ vừa là Nữ Hoàng, vừa là Trưởng Nữ, vừa là tiêu biểu tượng trưng: cái Hội Thánh làm mầm sống cho trời mới đất mới, đã gieo vào vườn trần thế, đợi ngày nở rộ vào giây phút cánh chung, lúc Chúa lại ngự đến.
Mỗi khi ta lĩnh nhận bí tích Thánh Thể, mầm sống đời sống thiêng liêng được gieo vào lòng ta, cây mầm siêu nhiên được tháp vào gốc cây tự nhiên của bản thân ta. Cây thiêng liêng ấy về mặt Bí Tích, được nuôi dưỡng trong lòng Mẹ Hội Thánh. Về mặt siêu nhiên được nuôi dưỡng trong lòng Mẹ Maria mà chuỗi hạt Mân Côi là một phương thế hữu hiệu vào bậc nhất giúp ta tiếp cận với Ngài.
Lần hạt Mân Côi mà biết quy tụ cả toàn bộ hệ thống khả năng bản thân: cơ thể, giác quan, tưởng tượng, lý trí, tình cảm, ý chí như thế, biết hướng về Chúa Giêsu và Đức Mẹ được diễn tả qua 15 sự VUI-THƯƠNG-MỪNG như thế, thì khác nào ta được cưu mang, che chở, bồi dưỡng tăng trưởng về đời sống thiêng liêng trong lòng băng tuyết vô nhiễm của Đức Maria, cho đến ngày mãn nguyệt khai hoa vĩnh viễn, ngày ta được sinh ra trong cuộc sống muốn đời trên Nước Trời muôn thuở.
Như vậy chuỗi hạt Mân Côi xoay vòng luân chuyển khác nào vòng tay Đức Mẹ, khác nào chính cung lòng Đức Mẹ đang đùm bọc che chở ta như một bào thai.
Blog Archive
Labels
- 10 điều răn (1)
- Archangles (5)
- Breviary (44)
- CHÚA GIÊSU ĐANG SỐNG (15)
- Dụ ngôn của Chúa (4)
- Film về Chúa (1)
- Hong An Thien Chua (20)
- Jesus Christ (9)
- linh hồn nơi luyện ngục (72)
- Lời Chúa (1)
- Lời chứng (42)
- Lyrics (1)
- Message (39)
- Mother of God (13)
- Nhà thờ (1)
- Niềm Tin Minh Hoạ (6)
- Phép lạ (21)
- Phúc thật tám mối (1)
- Rosary (18)
- Saints (8)
- Songs (4)
- Thánh ca (1)
- Thánh địa (1)
- The meaning (2)
- Tiên tri (1)
- Tiếng thì thầm (1)
- Truyện hay (8)