Pages

24/9/09

Tại Sao Tôi Trở Lại Với Cơ-đốc Giáo?

Tiến sĩ Lâm Ngữ Đường, sinh năm 1895, một học giả nổi tiếng của Trung Hoa, không phải là một nhân vật xa lạ với đa số chúng ta. Sau khi hoàn tất việc học tại Trung Quốc, ông đã học thêm tại Đại Học Harvard, Hoa Kỳ, và tại Đức Quốc. Ông về nước và đảm trách nhiều chức vụ quan trọng trong ngành giáo dục như giáo sư Anh Văn tại viện Đại Học Quốc Gia Bắc Kinh, Giám Đốc Học Vụ Viện Đại Học Phụ Nữ Bắc Kinh, chủ bút phần Anh Ngữ cho tờ Academia Sinica. Ông cũng là chủ bút của nhiều tạp chí chuyên môn ở Á Châu, làm Viện Trưởng Viện Đại Học Nanyang ở Singapore, và Giám Đốc Phân Bộ Văn Hóa Nghệ Thuật của tổ chức UNESCO.

Năm 1937, Tiến Sĩ Lâm Ngữ Đường xuất bản quyển The Importance of Living (Nguyễn Hiến Lê đã dịch ra tiếng Việt với tựa đề Một Quan Niệm Về Sống Đẹp). Đây là quyển sách nổi tiếng nhất của ông, sách nầy đã dẫn đầu số sách bán chạy nhất lúc đó.

Tiến sĩ Lâm Ngữ Đường sinh trưởng trong một gia đình Cơ-đốc và theo học trường đạo từ nhỏ, nhưng khi lớn lên ông đã khước từ niềm tin đó và chủ trương sống theo triết lý Khổng Mạnh. Trong quyển Một Quan Niệm Về Sống Đẹp, Tiến sĩ Lâm Ngữ Đường dành nguyên một chương nói về niềm tin của mình và cho biết sở dĩ ông chống Cơ-đốc giáo vì đối với ông đạo nầy quá "kiêu ngạo," cho rằng mình có thể biết Thượng Đế và định nghĩa được Thượng Đế. Về phương diện đạo đức, ông cho rằng đường lối của Khổng giáo hay hơn Cơ-đốc giáo trong việc hướng dẫn đời sống con người.

Tiến sĩ Lâm Ngữ Đường cũng viết thêm nhiều sách khác, phần lớn về văn hóa và triết học của Trung Hoa và Ấn Độ. Chính ông là người đã phát minh ra máy đánh chữ tiếng Trung Hoa. Tài năng của ông đã khiến ông trở thành biểu tượng cho học giả của Á Đông hiện đại. Tiến sĩ Lâm Ngữ Đường cư ngụ tại New York trước khi ông qua đời tại đây vào năm 1976. Trong những năm ở tại New York, vợ ông thường đi nhà thờ Hội Trưởng Lão ở đại lộ Madison. Một Chúa Nhật nọ, bà rủ ông cùng đi...

Phần còn lại của câu chuyện được đăng trong báo Presbyterian Life, xuất bản ngày 15-4-1959, dưới tựa đề: "Tại sao tôi trở lại với Cơ-đốc giáo?"

Nhiều người đã hỏi tôi (có người hỏi với giọng vui sướng, có người với vẻ thất vọng) rằng, tại sao một người từng kể mình là người vô đạo như tôi lại trở về với Cơ-đốc giáo? Tôi trở về với đức tin Cơ-đốc và gia nhập Hội Thánh của Chúa là vì tôi muốn quay về với ý thức về Thượng Đế và tình yêu của Ngài mà Chúa Giê-xu đã mạc khải cho tôi cách đơn giản và rõ ràng.

Câu hỏi quan trọng nhất trong đời sống là: Con người có thể sống mà không cần đến tôn giáo hay không? Trong hơn ba mươi năm, tôn giáo duy nhất của tôi là chủ nghĩa nhân bản (humanism), hay nói đúng hơn là quan niệm của Khổng giáo về cuộc đời. Quan niệm này cho rằng nhờ giáo dục, con người có thể làm cho mình trở nên người toàn thiện. Đây cũng là quan niệm chủ trương rằng con người thừa sức để giải quyết những vấn đề của chính mình. Bây giờ thì tôi tin rằng nếu không có tôn giáo, con người không thể nào sống còn. Con người không thể nào, và sẽ chẳng bao giờ có thể tự giải quyết vấn đề của chính mình và tôn giáo nào dựa vào khả năng tự trở thành toàn thiện để cứu giúp người thì chưa thể kể là tôn giáo.

Con người cần được nối kết với một Sức Mạnh ở bên ngoài và lớn hơn chính mình. Tôi tin rằng đức tin Cơ-đốc, qua sự mạc khải của Chúa Cứu Thế, đã cung ứng cho con người con đường duy nhất dẫn đến Thượng Đế. Và tôi cũng phải công nhận rằng, khi tinh thần vô tôn giáo và chủ nghĩa vật chất gia tăng, thì tinh thần của con người cũng băng hoại và yếu mòn. Chính tôi đã chứng kiến những hành động tệ hại của một quốc gia sống mà không kể gì đến Thượng Đế.

Đến đây có lẽ tôi cũng nên nói qua về chính mình tôi để quý vị rõ. Gia đình tôi theo Cơ-đốc giáo đã ba đời. Cha tôi là mục sư của Hội Trưởng Lão. Ông làm mục sư tại một làng nằm trong miền núi hẻo lánh, gần cửa khẩu Hạ Môn, thuộc vùng biển Đông Nam của Trung Quốc. Nơi chúng tôi sống là một thung lũng có núi bao bọc chung quanh, cũng chính vì thế mà người ta gọi làng tôi là "cái hồ." Thời thơ ấu của tôi thật tươi đẹp, tôi được sống gần với Chúa, bên cạnh thiên nhiên hùng vĩ mà Ngài đã tạo dựng. Tôi được thưởng thức vẻ đẹp của những đám mây phủ trên các đỉnh núi cao, đồng cỏ xanh ngát dưới ánh hoàng hôn, tiếng róc rách của dòng suối nhỏ. Những kỷ niệm này ảnh hưởng đến niềm tin của tôi rất nhiều, nó làm tôi chán ghét tất cả những gì giả tạo, phiền toái và nhỏ bé.

Khi tôi còn nhỏ, gia đình tôi sống đơn sơ, nhưng đầy tình thương. Anh chị em chúng tôi không được phép cãi nhau, và thật vậy, chúng tôi chẳng bao giờ cãi nhau. Trong nhà ai cũng ham học, ai cũng muốn học hành đến nơi đến chốn. Nhưng lúc đó, mới đầu thế kỷ hai mươi, Từ Hi Thái Hậu còn cầm quyền tại Trung Quốc. Cha tôi nói với chúng tôi giọng nửa đùa nửa thật rằng, ông hy vọng một ngày kia tôi sẽ được du học ở Đại Học Berlin hoặc Oxford. Gia đình chúng tôi thường hay mơ ước những chuyện viển vông như thế.

Sau đó ít lâu, một biến cố xảy ra trong gia đình đã tạo ảnh hưởng sâu đậm trong đời tôi. Người chị thứ hai của tôi, rất thông minh và hiền hậu, muốn đi học đại học, nhưng ở Trung Hoa lúc đó việc học hành là của con trai chứ ít ai nghĩ đến cho con gái. Hơn nữa, cha tôi chỉ có thể lo cho một người ăn học mà thôi. Vì thế, năm 21 tuổi, chị tôi đi lấy chồng. Tôi còn nhớ ngày hôm đó, tôi và chị tôi cùng xuôi một chuyến đò: chị đi về nhà chồng, còn tôi lên Thượng Hải để vào đại học. Lúc chia tay, chị tôi lấy trong túi chiếc áo cưới bốn mươi đồng bạc, giúi vào tay tôi, vừa khóc vừa nói: "Chị là con gái, không được đi học, còn em, được đi học đại học, đừng lãng phí cơ hội. Em ráng học để mai kia trở nên một người tốt, hữu dụng và nổi tiếng."

Hai năm sau, chị tôi chết vì bệnh dịch hạch. Bốn mươi đồng chị cho tôi đã tiêu hết, nhưng những lời chị nhắn nhủ, tôi chẳng bao giờ quên! Lên Thượng Hải, tôi chọn ngành thần học để ra làm mục sư, nhưng chẳng biết vì sao, tôi cảm thấy môn thần học thật là vô nghĩa, và tôi đâm ra chán, không muốn học nữa. Nghĩ rằng nên thành thật với chính mình là hơn, nên tôi bỏ ý định làm mục sư. Và dù vẫn còn lòng tin nơi Chúa, tôi cũng bỏ, không đi nhà thờ nữa!

Từ đó những ảnh hưởng chung quanh tôi đã khiến tôi trở thành người ngoại đạo. Sau khi tốt nghiệp đại học, tôi lên Bắc Kinh để đi dạy. Cũng như bao nhiêu sinh viên khác ở trường thần học ra, tiếng Trung Hoa của tôi rất kém. Tôi cũng không biết nhiều về văn học dân gian, và là tín đồ Tin Lành lúc đó, tôi không được phép nghe nhạc đời. Mỗi khi đi ngang qua rạp hát, chúng tôi phải nhìn thẳng phía trước mà đi, không được lảng vảng gần những nơi ấy. Hồi nhỏ, tôi biết chuyện Giô-suê thổi kèn làm cho tường thành Giê-ri-cô sụp đổ, nhưng chẳng ai kể cho tôi nghe chuyện nước mắt của nàng Mạnh Khương làm trôi một góc Vạn Lý Trường Thành! Tiếp xúc với một xã hội Trung Hoa thật sự với tất cả những hào nhoáng của Bắc Kinh, tôi thấy xấu hổ trước sự dốt nát của mình nên tôi đã lao đầu vào việc nghiên cứu văn chương và triết học Trung Quốc.

Tuy nhiên, đối với người được trưởng dưỡng trong một gia đình "đạo dòng" như tôi, đó không phải là chuyện dễ. Tôi lo sợ khi phải bước ra khỏi thế giới có Chúa bao bọc để bước vào một thế giới hoàn toàn ngoại giáo. Nhưng rồi một người bạn của tôi, một nhà trí thức theo đường lối giáo dục mới đã thu hút tôi với chủ trương "nhân chi sơ tính bản thiện" của Nho giáo! Tôi biết rằng, Đức Khổng Tử đã dạy con người thà chết lành hơn sống dữ! Mạnh Tử cũng đã nói: "Tôi yêu đời sống nhưng cũng yêu lẽ phải, nếu không thể có cả hai, tôi sẽ sẵn sàng hy sinh đời sống để được lẽ phải."

Đó là căn bản của chủ nghĩa nhân bản: cậy vào sức mạnh và lý trí để nâng cao và cải thiện chính mình, rồi sau đó cải thiện cả thế giới! Đây cũng là chủ trương của những nhà duy lý trong thế kỷ 18 (theo tôi, chủ trương nầy cũng chịu ảnh hưởng ít nhiều của Nho giáo) như Voltaire, Diderot, Leibnitz. Đây là thời đại mệnh danh là Thời Đại Khai Sáng.

Chủ thuyết nầy đã làm thỏa mãn tâm hồn tôi suốt nhiều năm. Nhưng rồi qua kinh nghiệm và những phút suy tư, tôi thấy hình như có một cái gì bất an bắt đầu xâm chiếm tâm hồn. Tôi nhận thấy rằng thời đại Khai Sáng theo chủ nghĩa nhân bản đã nảy sinh ra chủ nghĩa vật chất. Niềm tin tưởng vào chính mình gia tăng, nhưng niềm tin đó không làm con người trở nên thánh thiện hơn. Con người có thể tài giỏi hơn, nhưng càng ngày con người càng mất đi tính mềm mại, khiêm tốn của một người đứng trước sự hiện diện của Thượng Đế. Lịch sử hiện đại chỉ cho tôi thấy rõ rằng, thiếu đức khiêm tốn ấy, con người dù rất tiến bộ về kỹ thuật và vật chất, đã trở nên những con người dã man và tàn ác.

Vì càng ngày càng không thỏa lòng với chủ nghĩa nhân bản, tôi luôn luôn tự hỏi: "Có tôn giáo nào trên đời này có thể đáp ứng được niềm khao khát của những người văn minh học thức không?"

Cũng giống như chủ nghĩa nhân bản, Nho giáo với tất cả những giáo huấn đạo đức cao siêu, vẫn không đủ để cải thiện con người vì đã nhiều lần, nhiều cách, con người chứng tỏ rằng mình không tốt đẹp chút nào. Phật giáo, là đạo từ bi, đặt căn bản trên triết lý cho rằng tất cả những gì có thể cảm biết được trên đời này chỉ là ảo ảnh. Điều hay nhất và điều duy nhất mà Phật giáo có thể cống hiến cho đời là cho con người biết rằng, "Đời là bể khổ!" Triết lý của Lão giáo thì rất gần với Bài Giảng Trên Núi của Chúa Giê-xu. Tuy nhiên, chủ trương trở về với thiên nhiên và chữ "nhàn" của Lão giáo chẳng những không thích hợp với đời sống văn minh mà cũng không giải quyết được vấn đề của con người hiện đại.

Có lẽ trong thời gian này, đức tin của thời thơ ấu đã sống lại trong tiềm thức tôi. Trong những năm đó, mỗi lần chúng tôi di chuyển đến nơi nào, nhà tôi cũng tìm đến nhà thờ để đi lễ. Thỉnh thoảng tôi cũng đi theo. Dầu vậy, mỗi lần ở nhà thờ về, tôi cảm thấy thất vọng hơn là phấn khởi. Tôi không thể nào chịu nổi khi phải nghe một bài giảng quá dở. Tôi khó chịu mỗi khi nghe vị mục sư nói về tội lỗi, địa ngục và diêm sinh trong hồ lửa. Cuối cùng tôi tự nhủ sẽ chẳng bao giờ trở lại nhà thờ nữa!

Nhưng rồi một Chúa Nhật nọ, khi đang ở New York, nhà tôi lại rủ tôi đi nhà thờ. Nhà tôi thuyết phục tôi bằng cách nói rằng, "Anh có thể không đồng ý với nội dung bài thuyết giảng, nhưng thế nào cũng phải cảm phục văn chương và tài hùng biện của vị mục sư này!" Lúc đầu tôi ngần ngừ nhưng cuối cùng tôi quyết định đi. Đó là nhà thờ Hội Trưởng Lão ở đường Madison, và vị mục sư là Tiến Sĩ David Read.

Văn chương của Tiến Sĩ Read thật hay và cách ông trình bày bài giảng thật khéo, nhưng đó không phải là lý do chính khiến tôi thích bài thuyết giảng hôm ấy. Sáng hôm đó ông nói về sự sống vĩnh cửu và tôi chăm chú theo dõi từng lời từng tiếng. Đối với tôi, thiên đàng không có gì hấp dẫn nếu đó chỉ là nơi mà ta sẽ sống đời đời để ca tụng Chúa, là nơi mà mọi sự đều an lành, không còn đói khát, than khóc, và cứ như thế hết ngày này sang ngày khác. Hình ảnh cổng thiên đàng đầy ngọc quý đối với tôi chỉ là nơi mà các ông chủ tiệm cầm đồ mơ ước được đặt chân đến. Chỉ những người chưa được đặt chân đến Tiffanys (một tiệm bán nữ trang đắt tiền ở New York) trên đời này thì mới mơ ước được vào một nơi sang trọng như thế ở đời sau!

Trong bài giảng, vị mục sư hỏi, "Sống đời đời nghĩa là gì?" Và ông trả lời, "Sống đời đời không phải chỉ có nghĩa là sống mãi mãi. Sống đời đời là sống cao hơn đời sống thân xác: ăn, ngủ, sinh sản; có ý nghĩa hơn đời sống thế tục: đi làm, trả nợ, nuôi con ăn học."

Vị mục sư nói tiếp, "Có một sự sống cao quý hơn, trong đó con người hướng đến những giá trị tâm linh, đưa con người đến chỗ vị tha, sẵn sàng hy sinh cho người khác. Cuộc sống cao quý ấy liên quan đến những giá trị tâm linh, ý thức về huyền nhiệm của những giá trị đạo đức trong tâm hồn và thiên đàng chỉ là một phần của đời sống ấy. Đây là sự sống kéo dài mãi mãi và trên bình diện đó, đời đời nghĩa là đời đời thỏa mãn!"

Tôi tiếp tục trở lại nhà thờ đó mỗi tuần. Tôi trở lại để nghiên cứu, để học những điều đẹp đẽ và đơn thuần nhưng tuyệt vời cao siêu trong lời dạy của Chúa Giê-xu. Cũng như sứ đồ Phao-lô ngày xưa, những chiếc vảy cá bắt đầu rớt ra khỏi mắt tôi.

Tôi khám phá nhiều điều mới lạ trong Kinh Thánh như thể là tôi chưa được đọc Kinh Thánh bao giờ. Tôi khám phá ra rằng, từ xưa đến giờ chưa có ai dám nói những lời như Chúa Giê-xu đã nói. Ngài nói Thượng Đế tức là Đức Chúa Cha, là Đấng biết rõ chính Ngài và hòa làm một với Ngài trong tình yêu và trong sự hiểu biết. Không một bậc thầy nào ở đời này hiểu biết và có mối quan hệ đặc biệt như thế đối với Thượng Đế. Chính vì sự hiểu biết và mối quan hệ mật thiết đó mà Chúa Giê-xu đã dám tuyên bố một cách mạnh mẽ rằng: "Ai thấy ta là đã thấy Cha!"

Một điều khác cũng làm tôi ngạc nhiên vô cùng, đó là Thượng Đế mà Chúa Giê-xu mạc khải khác hẳn với Thượng Đế trong ý niệm sai lầm của con người. Lời cầu nguyện của Chúa Giê-xu trên cây thập tự cho tôi thấy một tình yêu mới: "Lạy Cha, xin tha cho họ vì họ không biết mình làm điều gì!" Lời đó trong cả lịch sử loài người chưa có ai dám nói, và nó đã bày tỏ Thượng Đế là Đấng tha thứ, không phải trên lý thuyết, nhưng tha thứ qua sự hy sinh cụ thể, rõ ràng của Chúa Cứu Thế Giê-xu. Không một bậc thánh hiền nào có thể tuyên bố một câu đầy ý nghĩa như câu: "Nếu các ngươi làm việc này cho một người hèn mọn nhất của anh em ta, là đã làm cho chính mình ta." Chữ "ta" trong câu này là hình ảnh của Thượng Đế ngồi ghế chánh án trong phiên tòa chung thẩm, nhưng lại đặc biệt lưu tâm đến những người nghèo đói, những góa phụ đáng thương và những trẻ mồ côi tàn tật. Tôi thầm nghĩ, Chúa Giê-xu nói câu này với tư cách của một bậc Thầy, một người có toàn quyền trên cõi sống và cõi chết. Bài học tình yêu, nhân từ, thương xót đã được cụ thể hóa trong chính cuộc đời của Ngài. Cũng vì thế bao nhiêu người đã đến với Ngài, không chỉ vì kính phục nhưng vì muốn tôn thờ Chúa. Cũng chính vì thế mà ánh sáng làm cho Thánh Phao-lô bị mù lòa trên đường đến thành Đa-mách đã tiếp tục soi đường dẫn lối cho con người qua bao nhiêu thế kỷ.

Dĩ nhiên tôi biết rằng, khi nói Thượng Đế là tình thương và tình thương đó sẽ biến thế giới con người trở nên tốt đẹp, thì những người theo chủ nghĩa duy vật ngày nay sẽ chế nhạo, vì họ cho rằng thế giới này chẳng qua chỉ là một mớ những hạt nhân nguyên tử, chạy theo những định luật vật lý mù quáng. Phúc Âm và tình thương của Thượng Đế cũng bị những người theo chủ nghĩa Mác-xít coi thường, xen lẫn sợ hãi, vì họ luôn chủ trương hận thù và bạo động. Thật ra tôi nghĩ rằng, không có một lý thuyết nào trên đời này, kể cả thuyết nhân bản, có thể giúp con người chừa bỏ được tính thù ghét, bạo động, thủ đoạn và gian dối, ngoại trừ những lời dạy mạnh mẽ của Chúa Giê-xu. Cũng vì thế, nếu người Cộng Sản muốn tiến đến chỗ thành lập một xã hội vật chất vô thần, điều đầu tiên họ phải làm là phải tiêu diệt cho được lòng kính sợ Thượng Đế nơi con người! Do đó, Cơ-đốc nhân chân chính không thể là một người Cộng Sản, và ngược lại, một đảng viên Cộng Sản cũng không thể nào là môn đồ của Chúa Giê-xu được. Cho nên, tranh chấp giữa một xã hội vô thần với một xã hội đặt Thượng Đế làm chủ trong lòng người, là điều chắc chắn và dĩ nhiên.

Tôi không còn đặt câu hỏi: "Có tôn giáo nào có thể làm thỏa mãn tâm hồn con người của thời đại tân tiến này không?" bởi vì tôi biết là có. Trở về với Thánh Kinh, tôi thấy Thánh Kinh không chỉ là quyển sách ghi lại những dữ kiện lịch sử, nhưng cũng ghi lại sự mạc khải chính xác, qua Chúa Giê-xu; chính sự mạc khải đó đã đem Thượng Đế xuống ngang tầm mắt của tôi, để tôi có thể biết Ngài. Tôi đi nhà thờ trở lại, và sung sướng được ngồi ở hàng ghế quen thuộc mỗi sáng Chúa Nhật. Tôi tin rằng chúng ta đi nhà thờ không phải vì chúng ta là người có tội; cũng không phải vì chúng ta là người đạo đức mẫu mực. Chúng ta đi nhà thờ vì ý thức được gia sản thiêng liêng của mình, vì nhận thức rõ giá trị cao quý của con người; cũng như vì biết rõ những thất bại và tính tự cao tự mãn cố hữu của con người. Nếu không nhờ vào một quyền lực mạnh mẽ từ bên ngoài, chúng ta có thể ngã trở lại vào cái hố tự cao tự mãn ấy một cách dễ dàng.

Người nào muốn thấy được vẻ đẹp tuyệt vời và muốn kinh nghiệm được sức mạnh tinh thần trong lời dạy của Chúa Giê-xu, người ấy phải loại bỏ những sáo ngữ tôn giáo, là điều thường làm cho lời dạy của Chúa bị lu mờ. Chính Chúa Giê-xu đã đơn giản hóa và đã cô đọng tất cả tinh hoa của Cơ-đốc giáo trong hai điều luật: kính Chúa, yêu người. Hai điều luật này đầy đủ hơn tất cả những niềm tin khác và bao gồm đầy đủ tất cả luật pháp và lời tiên tri, tức là cả bộ Thánh Kinh. Cuộc đời của Chúa Giê-xu và Phúc Âm của Ngài đã đem lại thỏa mãn cho tâm hồn tôi, sự thỏa mãn ấy cứ được tươi mới hơn mỗi ngày. Cả thế giới này cũng sẽ không tìm được sự thỏa mãn hoàn toàn cho tâm hồn nếu thiếu Chúa Giê-xu và Phúc Âm của Ngài.

Nhìn lại, tôi thấy suốt ba mươi năm qua tôi sống trên đời nầy như một trẻ mồ côi, nhưng bây giờ tôi không còn mồ côi nữa! Tôi bị trôi giạt đã lâu, nhưng nay tôi đã tìm được bến bờ. Buổi sáng Chúa Nhật tôi trở lại nhà thờ, cũng là ngày tôi trở về với mái nhà thân yêu.

Lâm Ngữ Đường

Trích ra từ: Conversions, The Christian Experience, nhà xuất bản William B. Eerdmans, 1985.

Tôi được chữa lành bệnh ung thư

Xin hãy cùng tôi ngợi khen cảm tạ Chúa về những ơn lành Ngài đã làm trong đời sống tôi.

Tôi mắc bịnh ung thư mũi.Theo danh từ khoa học, chứng bịnh nầy là squamous cell carcinoma of nasopharynx. Ngày 20 tháng 4 năm 1998, tôi được Bs Stephen A. Landers thuộc bệnh viện Baylor, Dallas giải phẩu hạch ung thư ở cổ, nằm bệnh viện bốn ngày, sau đó tôi trải qua tám tuần lễ chạy radiation tại Sammons Cancer Center do sự điều trị của Bác sĩ R. Pickett Scruggs đồng thời phối hợp chuyền hóa chất chemo therapy ba lần dưới sự điều trị của Bs Claude A. Denham. Bác sĩ Scruggs rất lạc quan về sự điều trị tiến triển khả quan cuả tôi, Bs Denhem muốn tôi chạy chemo therapy thêm ba lần nữa cho dứt hẳn nọc ung thư có thể lan trong ngươi. Còn Bác sĩ Landers trong lần tái khám ngày 31 tháng 7 năm 1998 đã ghi vào hồ sơ bệnh án của tôi: No more tumor. Ngày 2 tháng 9 năm 1998 sau khi chụp phim catscan lần nữa, Bác sĩ Scruggs xem phim kỹ và nói với tôi là tumor ung thư của tôi không còn nữa. Thật sung sướng biết bao khi liên tục nghe được những tin mừng nầy.

Trải qua bốn, năm tháng trị bệnh, tôi đã kinh nghiệm thể nào về cuộc chiến đấu của bản thân đối với chứng bệnh nan y. Dầu thân thể đau đớn lâu ngày nhưng tâm trạng tôi nói chung lúc nào cũng lạc quan, tin tưởng, hy vọng. Mỗi ngày thấy cơ thể biến chuyển khá hơn tôi rất mừng, lòng không ngớt cảm ơn Chúa. Ðối với người đời có thể nói tôi được chữa bệnh nhờ y khoa hiện đại, nhưng đối với một người có đức tin nơi Ðức Chúa Trời là Ðấng toàn quyền trên hết thảy mọi sự, tôi tin Chuá mới chính là Ðấng đã chữa lành bệnh cho tôi. Thực ra mọi sự chữa lành đều đến từ Chuá là Ðấng dựng nên thân xác của loài người. Chuá đã ban cho mỗi người có khả năng tự điều chỉnh, tự chữa lành. Chẳng hạn, Bác sĩ bó xương gãy, cố định xương nhưng cơ thể bệnh nhân có khả năng tự lành xương, liền xương. Ðức Chuá Trời đã ban cho loài người sự khôn ngoan để nghiên cứu phương cách bảo vệ sức khoẻ. Một trong những lãnh vực then chốt của y khoa là tìm cách giúp thêm cho khả năng tự chữa lành của cơ thể do Chuá ban cho. Vâng, Chuá có thể dùng y khoa hiện đại, Ngài cũng dùng quyền phép vô biên của Ngài để tiếp tục ban sự sống và sức khỏe cho tôi. Tôi tin nơi ý định tốt lành của Ngài đối với đời sống tôi và "giao ước của Ngài đối với tôi là giao ước bình an chứ không phải là tai họa" (Giê-rê-mi 29:11).

Suốt hơn năm, sáu tháng qua thân xác tôi, tinh thần tôi đã trải qua thử thách nặng nề. Y khoa ngày nay dù hiện đại, nhưng vẫn không giúp bệnh nhân thoát được sự đau đớn hành hạ và những phản ứng phụ (side effects) của việc điều trị. Ðể chữa bệnh ung thư, các bác sĩ đã dùng những biện pháp thật mạnh để "dĩ độc trị độc". Chạy radiation là người ta chiếu tập trung tia phóng xạ vào tumor được xác định để đốt các tế bào ung thư tại đó. Dù chạy tia phóng xạ mỗi lần một phút đến vài phút, nhưng tác động của nó đã làm cháy cả trong lẫn ngoài. Radiation làm cháy tumor ung thư nhưng cũng làm cháy các cơ quan liên hệ chung quanh. Sau vài tuần chạy radiation, hai bên má của tôi bị cháy đen, ở trong lẫn ngoài đều bị rát, cổ họng sưng lên không ăn uống gì được. Sau khi hết chạy radiation, cơ thể của tôi mới phục hồi từ từ mỗi ngày một chút, nhưng việc ăn uống thì nay tôi vẫn chưa ăn được bằng miệng. Còn chuyền hoá chất chemo therapy là đưa chất độc vào cơ thể để chận đứng sự phát triển các tế bào ung thư, nhưng hoá chất nầy là cũng làm hư hoại các tế bào lành mạnh khác của thân thể, hồng huyết cầu bị sụt giảm, tóc rụng hàng loạt, người trở nên xanh xao và sức lực yếu hẳn. Ðiều khó chịu nhất là khi chuyền hoá chất, dù bác sĩ có cho thuốc uống ngừa và trừ ói mữa, bệnh nhân vẫn không tránh khỏi. Bản thân tôi cũng vậy, mỗi lần chuyền hoá chất đều ói mữa, mệt nhọc vô cùng. Chính vì đó mà bác sĩ đã cho chuyền hoá chất từng đợt cách nhau một khoảng thời gian để cơ thể được hồi phục.

Trong suốt thời gian thử thách vừa qua tôi tìm được nhiều lý do để được an ủi và có cớ tạ ơn Chúa về ơn lành Ngài đã làm cho đời sống tôi.

Thứ nhất, là tôi được chữa bệnh ở Bệnh viện Baylor. Ðây là bệnh viện tư thuộc Giáo Hội Báp-tít. Tôi là Pastor Báp-tít nên cũng được bệnh viện chiếu cố giúp đở. Nhờ sự can thiệp của Giáo Hội Báp-tít Texas, tôi được nhận chữa bệnh khỏi phải trả tiền. Tôi tin rằng đây là một ơn đặc biệt Chúa ban cho tôi, không phải ai cũng được đặc ân như vậỵ Nếu các bác sĩ và bệnh viện không rộng rãi giúp đở, tôi không biết phải làm sao với món nợ y phí khổng lồ không bao giờ trả nỗi bởi lẽ insurance sức khoẻ của tôi đã không chịu trả đồng nào. Ðây là lý do quan trọng tôi dâng lời tạ ơn Chúa. Ngoài ra, bệnh viện Baylor Dallas rất tiện đường cho tôi từ nhà đến chữa trị. Tôi đi xe hơi trên xa lộ khoảng 15 phút là tới bệnh viện, khỏi tốn tiền đậu xe và không xa cách nhiều nếu so với việc đi chữa bệnh ở bệnh viện công Parland. Việc chữa trị tại đây mỗi lần cũng nhanh chóng, khỏi phải chờ đợi lâu.

Thứ hai, nhân dịp Bác sĩ Landers giải phẫu hạch cổ cho tôi, ông đã nhờ một Bác sĩ chuyên môn khác đặt một ống feeding tube vào bao tử của tôi. Bác sĩ chuẩn bị sẵn cả tháng trước khi tôi cần dùng đến. Và tôi thực sự cần để sống còn. Dầu không cảm biết mùi vị của thức ăn, tôi sống được là nhờ thức ăn lỏng bơm chuyền vào cơ thể qua feeding tube nầỵ Vợ tôi đã chịu khó nấu, hầm thức ăn và xay lỏng thức ăn mỗi ngày. Suốt mấy tháng điều trị, nhân dịp nghỉ hè, con gái tôi cũng đã giúp tôi rất nhiều trong việc nấu, xay thức ăn và bơm thức ăn vào bao tử của tôi. Không có feeding tube nầy tôi không biết làm sao ăn uống được. Dầu vậy từ khi chữa bệnh, tôi cũng sụt mất gần 20 pounds. Tôi suy nghĩ và thầm cảm ơn sự hiện diện và bàn tay dịu dàng của giới phụ nữ trên thế gian nầy. Ở bệnh viện hầu như bệnh nhân tiếp xúc với những nữ y tá nhiều hơn với nam bác sĩ. Hầu hết những khâu điều trị ở bệnh viện đều có bàn tay người phụ nữ can dự vào. Ở trường học nữ giáo viên có lẻ nhiều hơn nam giới. Trong gia đình người phụ nữ xứng đáng là nội tướng đảm đang.

Thứ ba, tôi sống trong tình thương của gia đình và Hội Thánh. Nghe tin tôi mắc bệnh nan y, các tôi tớ và con cái Chuá khắp nơi xa gần đã ân cần thăm hỏi, thăm viếng, cầu nguyện, cầu thay, có Hội Thánh và tín hữu gởi thư an ủi, gởi tiền giúp đở. Hằng tuần có các Pastor Mỹ và Việt trong vùng nhận lời mời đến giảng Lời Chúa tại nhà thờ thế cho tôi. Ban Chấp Hành Hội Thánh của tôi cứ động viên khích lệ để tôi yên tâm điều trị khỏi phải lo lắng gì nhiều. Một con cái Chúa thường nấu thức ăn đem đến giúp tôi, có người chuyên giúp sữa ensure, có thể nói tôi không thiếu sữa trong nhà mỗi khi tôi có cần. Hội Thánh là một đại gia đình yêu thương mà Chúa đã lập giữa thế gian nầy. Hội Thánh thờ phượng Chuá, dạy dỗ Lời Chúa, truyền bá Phúc Âm. Hội Thánh giáo dục con em chúng ta nên người đạo đức, hữu dụng cho gia đình và xã hội. Hội Thánh là "muối của đất, là ánh sáng của thế gian." Tôi thiết tưởng mọi người đều cần Hội Thánh. Người không gia nhập và sinh hoạt với Hội Thánh sẽ là người cô độc mất mát biết bao. Có người tưởng không cần Hội Thánh mình vẫn sống, đúng vậy, vì "Ðức Chuá Trời khiến mặt trời mọc lên, soi kẻ lành cùng kẻ dữ; ban mưa cho người công bình lẫn người độc ác"; nhưng chắc chắn sẽ có lúc mỗi người cần đến Hội Thánh. Ðời người ai lại không trải qua những lúc vui, lúc buồn, lúc thành công, lúc thất bại, lúc bình an, lúc hoạn nạn? Quả thật, "Sông có khúc, người có lúc."

Thứ tư, trong thời gian điều trị, tôi có nhiều thời gian để suy gẫm lời Chúa. Tôi đã lần lượt đọc và suy gẫm tất cả các sách Kinh Thánh trong Tân Ðớc. Tôi nghiên cứu đề tài: "Tại sao con cái Chúa chịu khổ nạn?" Tôi nhận được nhiều dạy dỗ quí báu từ Lời Chúa và biết chắc rằng Ðức Chúa Trời là Ðấng tốt lành. Không việc gì Ngài làm là không tốt. Sự đau khổ mà tôi và con cái Chúa đang chịu cũng nằm trong ý định tốt lành của Ngài. Chúa không hứa cất đi sự hiện diện của khổ đau nhưng Ngài hứa sẽ hiện diện với con cái Ngài trong lúc khổ đau. Vấn đề là tôi có kiên nhẫn để chờ đợi, để tin tưởng và để đầu phục ý Chúa khi Chúa cho phép khổ đau xảy đến cho đời sống mình không. Tôi đang học trong trường đau khổ và hy vọng sẽ tốt nghiệp thành công. Có lần, trong lúc cơ thể đau đớn nhiều, tôi đọc được trong Kinh Thánh một lời mà tôi nhận là lời Chúa hứa cho mình: "Ðức Giê-hô-va phán: Ta sẽ chữa lành thân thể ngươi và chữa lành vết thương ngươi" (Giê-rê-mi 30:17a). Tôi được yên ủi sâu xa nhờ Lời Hằng Sống của Chúa. Kinh Thánh có nhiều câu nói lên mục đích của những khổ đau xảy đến trong đời sống người theo Chúa. Sự đau khổ là một mầu nhiệm. Chúa Giê-xu đã chọn con đường thập tự giá là con đường đau khổ và Ngài mời gọi những người theo Ngài hằng ngày vác thập giá mình chịu khổ mà theo Ngài. Dù hiện tại không ai hiểu hết lý do cùng mục đích của khổ đau trong cuộc đời, nhưng theo tôi, mấy câu Kinh Thánh sau đây nói lên mục đích chính: "Hởi con, chớ dể ngươi sự sửa phạt của Chúa" và khi Chúa trách chớ ngã lòng. Vì Chúa sửa phạt kẻ Ngài yêu. Hễ ai mà Ngài nhận làm con thì cho roi cho vọt. "Vả, cha về phần xác theo ý mình mà sửa phạt chúng ta tạm thời, nhưng Ðức Chúa Trời vì ích cho chúng ta mà sửa phạt, để khiến chúng ta được dự phần trong sự thánh khiết Ngài." "Thật các sự sửa phạt lúc đầu coi như một cớ buồn bã, chớ không phải vui mừng; nhưng về sau sanh ra bông trái công bình và bình an cho những kẻ đã chịu luyện tập như vậy" (Hê-bơ-rơ 12:5-6,10-11). Khi trải qua khổ đau mỗi con cái Chúa đều tự khắc hiểu được lý do và mục đích Chúa muốn trong đời sống của mình.

Hôm nay thân thể của tôi vẫn còn đau đớn xung quanh chỗ vết mỗ, tôi đang tập ăn lại bằng miệng, rao giảng Lời Chúa bằng giọng nói không trong như trước, nhưng tôi tin rằng bệnh tôi đã được Chúa chữa lành, tôi không lo sợ hai chữ ung thư nữa, tôi vẫn còn sống mạnh, sống dai để hầu việc Chúa, "Tôi sẽ chẳng chết đâu nhưng được sống, thuật lại công việc của Ðức Giê-hô-va" (Thi thiên 118:17).

Còn nhiều lý do khác tôi không kể hết, nhưng bấy nhiêu lý do nêu trên cũng đủ để suốt đời tôi tri ân, nhớ mãi.

Tôi nhớ một Pastor người Mỹ có kể câu chuyện khi ông còn nhỏ đã cùng các bạn bỏ học để đi câu cá. Khi bị thầy Hiệu trưởng bắt được và bị phạt đánh đòn. Trong khi chờ thầy đi lấy roi, các học trò nhỏ bàn nhau cách làm sao bị thầy đánh mà không đau. Mỗi em nói một cách, cuối cùng một em tỏ sáng kiến: "Muốn khỏi đau, mỗi lần thầy giơ roi đánh là mình áp sát người vào thầy hơn." Ðây cũng là cách mà tôi đang áp dụng để làm vơi bớt nỗi đau không thể tránh trong cuộc đời. Càng đau tôi càng gần Chúa hơn. Tôi càng gần Chúa hơn để cho bớt đau và để niềm đau trở nên có ý nghĩa hơn. Vâng, hôm nay sự đau khổ đã có ý nghĩa tích cực hơn đối với bản thân tôi.

Pastor Nguyễn Văn Huệ
Dallas, tháng 12, 1998,

Cầu Nguyện Chữa Lành

Sáng nay, (19/1/2004) tôi nhận được qua email mấy lời xin cầu nguyện chữa lành. Đặc biệt có lời nguyện của Đào Tiên xin ơn chữa lành cho cha xứ là Lm Gioan Nguyễn An Khang. Đào Tiên đã cầu nguyện: ”Con không muốn Chúa cất ngài về với Chúa. Xin Chúa hãy ban cho cha chúng con thêm sức mạnh để chiến đấu với bệnh tật”

Qua ý nguyện của Đào Tiên, tôi xin chia sẻ một chút về tác vụ cầu nguyện chữa lành.

1. Những ngày đau bệnh và ơn “đắc Thánh Linh”

Tháng 6/2001 tôi bị tai nạn xe. Sau đó tôi bị điếc hoàn toàn (điếc cấp 4). Dù mang máy trợ thính nhưng tôi chỉ nghe được chút ít. Đau khổ vì bệnh tật, xót xa vì tội lỗi….tôi quyết tâm sám hối để xin ơn tha tội và ơn chữa lành. Hằng ngày tôi vào Thánh đường cầu nguyện liên tục: lần chuỗi Mân côi, lần chuỗi Thương xót, kinh Nhật tụng và xin Chúa thánh Thần viếng thăm chữa lành với lời nguyện như sau:
22
“Nhân danh Chúa Ki Tô
Xin Cha ban Thánh Thần tràn đầy
trên tâm thân con
để Ngài tha tội con
để Ngài chữa lành cho con
để Ngài biến đổi con thành môn đệ Ngài.”

Buổi tối tôi về nhà xứ và tiếp tục cầu nguyện “xin Thánh Thần tràn đầy” với đôi tay dang ra trước Thánh thể.
Công việc mục vụ trong giáo xứ thì tôi nhờ cha phó xứ và thầy phó tế giúp, phần tôi, tôi chỉ lo ăn chay cầu nguyện (ăn chay thứ tư và thứ sáu như Đức Mẹ dạy tại Mễ Du).

Tôi cầu nguyện liên lỉ như vậy được 6 tháng thì được ơn “Thánh Thần tràn đầy“ và tai tôi mở ra, nhưng không phải là tai xác thịt mà là tai “thiêng liêng”. Từ đầu tháng 12/2001, hằng ngày, tôi nghe tiếng nội tâm tự xưng là Chúa Thánh Thần hay là Mẹ Thánh Linh.
Mẹ Thánh Linh giao cho tôi 2 nhiệm vụ là “thi sĩ “ và “ y sĩ “. “Thi sĩ ” là chép những bài thơ của Mẹ thì thầm. Và “y sĩ “ là cầu nguyện cho các bệnh nhân.

2. Cầu nguyện chữa lành:

Đã có cả vạn bệnh nhân đến xin tôi cầu nguyện chữa lành. Và tôi cũng được sung sướng chứng kiến nhiều người được chữa lành.

Khi bệnh nhân đến với tôi, tôi xin họ cùng cầu nguyện với tôi chốc lát. Thường là đọc kinh Chúa Thánh Thần, đọc 7 kinh lạy cha, 7 kinh kính mừng, 7 kinh sáng danh, kinh tin kính. Sau đó tôi chia sẻ Lời Chúa, khuyên nhủ các bệnh nhân về nhà tiếp tục ăn chay; cầu nguyện bằng chuỗi Mân côi, tham dự thánh lễ, đọc Lời Chúa, xưng tội. Điều quan trọng là củng cố niềm tin cho bệnh nhân, hầu họ có được niềm xác tín là lời cầu nguyện nào cũng được Chúa nhậm lời ban ơn.

Khi có đông bệnh nhân (thường là vào ngày 24 mỗi tháng, có những ba bốn trăm bệnh nhân) thì tôi dâng lễ cầu nguyện chung cho họ.
23
Rất ít bệnh nhân được chữa lành ngay sau khi cầu nguyện. Trong mấy năm cầu nguyện cho bệnh nhân, tôi chỉ thấy có khoảng chục người được lành bệnh ngay, chủ yếu là những bệnh nhân nguy tử hấp hối, trong số họ có một người mù và một người câm. Tuy nhiên, các bệnh nhân được lành bệnh sau nhiều tháng ăn chay cầu nguyện thì nhiều hơn, nhưng tỉ lệ lành bệnh cũng không nhiều lắm, chỉ khoảng 10%. Nhưng điều tôi xác tín là: bất cứ ai cầu nguyện sốt sắng cũng được ơn lành, được chữa lành về phần thiêng liêng, nghĩa là được ơn hoán cải.

3. Một số vấn đề cụ thể:

Tự do của Thiên Chúa và ý nghĩa của đau khổ:
Chúa biết ai cần lành bệnh thì Người ban ơn. Phải “vâng ý Cha dưới đất cũng như trên trời.” Đau khổ bệnh tật cũng cần thiết để thanh luyện đức tin, đó chính là mầu nhiệm thập giá. Tôi bệnh tật, tôi đã cầu nguyện xin ơn chữa lành đôi tai điếc, nhưng Chúa lại cho tôi ơn lớn lao hơn, là ơn mở tai thiêng liêng, cho tôi được nghe tiếng Chúa, cho tôi được ơn Thánh Linh tràn đầy…Và cho tới nay tôi vẫn phải chịu đau khổ vì điếc lác (tôi bị cho là mắc bệnh hoang tưởng khi nghe tiếng Chúa!) Chúa Thánh Thần nói với tôi rằng:
“Khi con điếc con nằm con khóc
đó có phải là dịp may hay không ?
Vì Chúa Thánh Thần đến viếng thăm an ủi,
cũng là đến thanh luyện cho con được siêng năng cầu nguyện hơn
biết nói chuyện với người ta tử tế hơn
Bệnh tật cũng có thể là tốt đẹp
Nếu ta biết cộng tác với Chúa
Bệnh tật là cơ hội
Cho nhiều người đến với Chúa
Bệnh tật cũng là dịp may
cho người ta đến với Chúa
Dù là Chúa vô hình hay Chúa hữu hình
Bệnh tật cũng có thể là dịp may
hay cơ hội cho con người
Không chỉ là đau khổ mà thôi”
Ơn chữa lành làm chứng thời quang lâm đã đến.
24
Khi các môn đệ của Thánh Gioan tẩy Giả đến hỏi Ngài có phải là Đức Ki Tô không ? Chúa Giê Su trả lời: ”Các anh cứ về thuật lại cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe: người mù được xem thấy, kẻ què đi được, người cùi đựơc sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại “( Mt 11,4-5)

Thời nay, cùng với các biến cố hiện ra của Đức Mẹ ở khắp nơi và sự phát triển của phong trào Đặc sủng Thánh Linh, có nhiều người được ơn cầu nguyện chữa lành. Đây chính là dấu chỉ của thời Quang lâm. Chúa Thánh Thần nói với tôi:

“Con không biết sao, thì giờ đã đến
đến thời Quang lâm, đến lúc Quang lâm
đó là Thần khí tuôn tràn vũ trụ
Vũ trụ giao hoà như giấc hoa
Như là mộng ban chiều Mẹ sẽ chữa lành tất cả
Những ai đến đây sẽ được chữa lành hồn xác”

Đôi điều tâm sự:

Từ mấy năm nay, ơn gọi chủ yếu của tôi là cầu nguyện. Chúa Thánh Thần muốn tôi phải hy sinh nhiều việc, dù cần thiết (xem ti vi, vi tính, nghe đài, đọc sách báo…) để cầu nguyện mà thôi. Vì bệnh nhân đến với tôi nhiều quá, tôi không có thời gian tiếp họ, nên tôi mới nghĩ đến việc cầu nguyện qua email. Nhờ đó mà tôi được tham gia vào Mạng Lưới Cầu Nguyện Thánh Linh…

Tôi đặc biệt cám ơn Đào Tiên với lời cầu nguyện độc đáo: “con không muốn Chúa cất Ngài về” đã khiến tôi đủ can đảm để viết những lời tâm sự này.

Tôi cũng đã được hân hạnh đến viếng thăm xứ Cađô của Đào Tiên một lần và cũng có biết Cha An Khang. Tôi đã và sẽ tiếp tục cầu nguyện cho cha Khang được ơn chữa lành bệnh tật “nếu đẹp lòng Chúa”. Cũng xin các bạn cầu nguyện cho tôi được ơn chữa lành!

Tạ ơn Chúa Thánh Thần
Chia sẻ của Lm. Phan Sinh Quang